Văn hóa kinh doanh Nhật Bản

Văn hóa kinh doanh Nhật Bản

Văn hóa kinh doanh Nhật Bản

Tokyo
Trong không gian kinh tế tri thức yếu tố con người đóng vai trò quyết định. Văn hóa làm cho yếu tố đó trở thành có chất lượng, liên kết và nhân lên siêu cấp các giá trị riêng lẻ của mỗi người và trở thành nguồn lực vô tận của mỗi quốc gia. Văn hóa kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào hoạt động kinh doanh, là cái mà các chủ thể kinh doanh áp dụng hoặc tạo ra trong quá trình hình thành nên những nền tảng có tính ổn định và đặc thù trong hoạt động kinh doanh của họ

1. Những nguyên nhân chính làm nên sự đặc thù của VHDN Nhật Bản

Sự phân thứ bậc mang tính "đẳng cấp": Đạo Khổng du nhập vào Nhật Bản từ rất sớm, kết hợp với tinh thần tôn vinh giới Võ Sĩ Đạo như là một đẳng cấp hàng đầu: Võ sĩ - Trí thức - Công Nông - Thương nhân, đã làm nên một xã hội đẳng cấp kiểu Nhật Bản với tư tưởng đề cao Lễ - Tín - Nghĩa - Trí - Nhân. Cho đến nay có nhiều thay đổi, nhưng tinh thần đó vẫn biểu hiện rất mạnh trong các mối quan hệ xã hội và các tổ chức của Nhật Bản thể hiện: - Tôn ti trật tự " Công ty mẹ và con ". Hội sở và chi nhánh - Quan hệ cấp trên cấp dưới " Lớp trước và lớp sau" Khách hàng và người bán hàng.

Một đất nước vốn dĩ nghèo nàn về tài nguyên, có nhiều thiên tai, kinh tế chủ yếu là nông - ngư nghiệp và sự ảnh hưởng của Tam Giáo Đồng nguyên du nhập nên người Nhật Bản coi trọng: - Tinh thần tập thể - Hài hòa Thiên Nhân Địa - Đề cao sự hợp lí - Sự ứng xử theo thứ tự coi trọng Lễ, Tín, Nghĩa, Trí, Nhân. Xã hội Nhật Bản tự biết mình thiếu rất nhiều các điều kiện nhưng cần phải khẳng định mình, nên có khuynh hướng du nhập và cải hóa những gì du nhập vào để chúng biến thành Kiểu Nhật Bản. Bởi vậy Văn hóa Doanh nhân Nhật Bản có sự giao thoa đỉnh cao các yếu tố Tây / Đông/ Nhật Bản. Tuy nhiên đến một lúc nào đó sự phát triển làm cho chiếc áo đó bộc lộ nhiều bất cập và mâu thuẫn. Tất cả cái đó cũng phản ánh trong tính cách phức tạp của người Nhật Bản.

Ngôn ngữ có nhiều mặt hạn chế ( như rất ít các nguyên âm, Phụ âm luôn đặt trước nguyên âm, một tỉ trọng lớn từ ngữ gốc ngoại nhập được thể hiện dưới dạng chữ Kanji và chữ Katakana ) góp phần khiến người Nhật Bản rất cẩn trọng khi phát biểu, thể hiện chính kiến, và thường thông qua thái độ ngầm định, những yếu tố phi ngôn ngữ, sự nỗ lực thể hiện của bản thân để điền vào chỗ trống của ngôn từ. Bởi vậy để hiểu họ thường phải kết hợp nghe họ nói, quan sát những gì họ thể hiện và thấu hiểu tính cách của họ.

Sự thua trận của Nhật Bản trong Đại chiến thế giới lần thứ II khiến Nhật Bản chỉ còn lại đống tro tàn và nhục nhÂ, bên cạnh đó là bị ràng buộc bởi rất nhiều cam kết bất lợi. Điều này khiến cả nước Nhật gắn kết lại, làm hết sức mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Trong thời kì này dấy lên trong xã hội Nhật Bản sự tôn vinh lao động xả thân vì doanh nhân và vì xã hội. Người Nhật Bản coi trọng lao động hơn tất cả, gắn bó với doanh nhân hơn với gia đình của mình, đặt tất cả sự nghiệp của mình cho sự thành công của tổ chức. Cạnh tranh và hiệp tác được thúc đẩy song hành. Hàng chục năm qua đi, những phẩm chất đó đ trở thành những nét mới, bền chắc và định hình thành Văn hóa Doanh nhân Nhật Bản. Không ai nghi ngờ gì Văn hóa Doanh nhân đó đã giúp nhiều doanh nhân Nhật Bản gặt hái được nhiều thành công, Nhật Bản trở thành cường quốc thứ II trong nền kinh tế thế giới.

2. Nét độc đáo của VHDN Nhật Bản

Triết lí kinh doanh
Có thể nói rất hiếm các doanh nhân Nhật Bản không có triết lí kinh doanh. Điều đó được hiểu như sứ mệnh của doanh nhân trong sự nghiệp kinh doanh. Là hình ảnh của doanh nhân trong ngành và trong xã hội. Nó có ý nghĩa như mục tiêu phát biểu, xuyên suốt, có ý nghĩa định hướng cho doanh nhân trong cả một thời kì phát triển rất dài. Thông qua triết lí kinh doanh doanh nhân tôn vinh một hệ giá trị chủ đạo xác định nền tảng cho sự phát triển, gắn kết mọi người và làm cho khách hàng biết đến doanh nhân . Hơn nữa các doanh nhân Nhật Bản sớm ý thức được tính xã hội hóa ngày càng tăng của hoạt động sản xuất kinh doanh , nên triết lí kinh doanh còn có ý nghĩa như một thương hiệu, cái bản sắc của doanh nhân . Ví dụ như Công ty Điện khí Matsushita: "Tinh thần xí nghiệp phục vụ đất nước" và " kinh doanh là đáp ứng như cầu của xã hội và người tiêu dùng". Doanh nghiệp Honđa: "Không mô phỏng, kiên trì sáng tạo, độc đáo: và - Dùng con mắt của thế giới mà nhìn vào vấn đề . Hay công ty Sony: "Sáng tạo là lí do tồn tại của chúng ta"...

Lựa chọn những giải pháp tối ưu
Những mối quan hệ: Doanh nhân - Xã hội; Doanh nhân - Khách hàng; Doanh nhân - Các Doanh nhân đối tác; Cấp trên - cấp dưới thường nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn về lợi ích, tiêu chí, đường lối. Để giải quyết các doanh nhân Nhật Bản thường tìm cách mở rộng đường tham khảo giữa các bên, tránh gây ra những xung đột đối đầu. Các bên đều có thể đưa ra các quyết định trên tinh thần giữ chữ Tình trên cơ sở hợp lí đa phương. Các qui định Pháp luật hay qui chế của DN được soạn thảo khá " lỏng lẻo" rất dễ linh hoạt nhưng rất ít trường hợp lạm dụng bởi một bên.

Đối nhân xử thế khéo léo.
Trong quan hệ, người Nhật Bản chấp nhận người khác có thể mắc sai lầm, nhưng luôn cho đối tác hiểu rằng điều đó không được phép lặp lại và tinh thần sửa chữa luôn thể hiện ở kết quả cuối cùng. Mọi người đều có ý thức rất rõ rằng không được xúc phạm người khác, cũng không cần buộc ai phải đưa ra những cam kết cụ thể. Nhưng những chuẩn mực đạo đức xã hội, đạo đức doanh nhân ( trách nhiệm đặt trên tình cảm ) đã tạo một sức ép vô hình lên tất cả khiến mọi người phải xác định được bổn phận của mình nếu muốn có chỗ đứng trong tổ chức. Điều này rõ ràng đến mức khi tiếp xúc với các nhân viên người Nhật nhiều người nước ngoài cảm thấy họ tận tụy và kín kẽ, nếu có trục trặc gì thì lỗi rất ít khi thuộc về người Nhật Bản. Người Nhật Bản có qui tắc bất thành văn trong khiển trách và phê bình như sau: - Người khiển trách là người có uy tín, được mọi người kính trọng và chính danh " Không phê bình khiển trách tùy tiện, vụn vặt, chỉ áp dụng khi sai sót có tính hệ thống, gây lây lan, có hậu quả rõ ràng " Phê bình khiển trách trong bầu không khí hòa hợp, không đối đầu, Win - Win.

Phát huy tính tích cực của nhân viên
Người Nhật Bản quan niệm rằng: trong bất cứ ai cũng đồng thời tồn tại cả mặt tốt lẫn mặt xấu, tài năng dù ít nhưng đều ở đâu đó trong mỗi cái đầu, khả năng dù nhỏ nhưng đều nằm trong mỗi bàn tay, cái Tâm có thể còn hạn hẹp nhưng đều ẩn trong mỗi trái tim. Nhiều khi còn ở dạng tiềm ẩn, hoặc do những cản trở khách quan hay chủ quan. Vấn đề là gọi thành tên, định vị nó bằng các chuẩn mực của tổ chức, tạo điều kiện, môi trường làm việc thuận lợi, thúc đẩy bằng đào tạo, sẵn sàng cho mọi người tham gia vào việc ra quyết định theo nhóm hoặc từ dưới lên. Các DN Nhật Bản đều coi con người là tài nguyên quí giá nhất, nguồn động lực quan trọng nhất làm nên giá trị gia tăng và phát triển bền vững của DN. Người Nhật Bản quen với điều: sáng kiến thuộc về mọi người, tích cực đề xuất sáng kiến quan trọng không kém gì tính hiệu quả của nó, bởi vì đó là điều cốt yếu khiến mọi người luôn suy nghĩ cải tiến công việc của mình và của người khác. Một DN sẽ thất bại khi mọi người không có động lực và không tìm thấy chỗ nào họ có thể đóng góp.

Tổ chức sản xuất kinh doanh năng động và độc đáo
Tinh thần kinh doanh hiện đại là lấy thị trường làm trung tâm, xuất phát từ khách hàng và hướng tói khách hàng. Điều này đã thể hiện rất sớm trong phong cách và đường lối KD Nhật Bản. Các DN lớn của Nhật Bản chỉ chiếm không đến 2% trong tổng số các DN mà đại bộ phận là các DN vừa và nhỏ. Nhưng sự liên kết giữa chúng thì rất đa dạng và hiệu quả. Đó là sự liên kết hàng ngang giữa các công ty mẹ ( loại lớn ) nhằm phát huy lợi thế tuyệt đối của các công ty thành viên, tăng khả năng cạnh tranh vào các thị trường lớn, với các đối thủ lớn của quốc tế. Nhưng dưới mỗi công ty mẹ là vô số các công ty con ( loại vừa và nhỏ ) liên kết theo chiều dọc nhằm phát huy các lợi thế tương đối của các công ty thành viên, khai thác lợi thê tiềm năng của thị trường tại chỗ, tăng lợi thế tuyệt đối cho công ty mẹ, và uyển chuyển thích nghi khi có biến động kinh tế. Sự liên kết đó thấy rất rõ qua hình thức cổ phần chéo, gắn kết về tài chính, nghiên cứu phát triển, hệ thống kênh phân phối, cung ứng đầu vào, hỗ trợ nhân sự... Các doanh nhân Nhật Bản luôn đề cao chất lượng thỏa mãn nhu cầu khách hàng, các cam kết kinh doanh , đi trước thị trường và kết hợp hài hòa các lợi ích. Cải tiến liên tục, ở từng người, từng bộ phận trong các doanh nhân Nhật Bản để tăng tính cạnh tranh của doanh nhân và thỏa mÂn khách hàng tốt hơn là điều rất nhiều người nước ngoài đã từng biết

Công ty như một cộng đồng
Điều này thể hiện trên những phương diện: - Mọi thành viên gắn kết với nhau trên tinh thần chia xẻ trách nhiệm hơn là bởi hệ thống quyền lực " Tổ chức như một con thuyền vận mệnh, một mái nhà chung " Anh làm được gì cho tổ chức quan trọng hơn anh là ai - Sự nghiệp và lộ trình công danh của mỗi nhân viên gắn với các chặng đường thành công của doanh nhân - Mọi người sống vì doanh nhân, nghĩ về doanh nhân, vui buồn với thăng trầm của doanh nhân Triết lí kinh doanh được hình thành luôn trên cơ sở đề cao ý nghĩa cộng đồng và phù hợp với các chuẩn mực xã hội, hướng tói những giá trị mà xã hội tôn vinh. Đã có thời người ta hỏi nhau làm ở đâu hơn là hỏi gia đình như thế nào. Sự dìu dắt của lớp trước đối với lớp sau, sự gương mẫu của những người lÂnh đạo làm cho tinh thần cộng đồng ấy càng bền chặt. Trong nhiều chục năm chế độ tuyển dụng chung thân suốt đời và thăng tiến nội bộ đã làm sâu sắc thêm điều này.

Công tác đào tạo và sử dụng người
Thực tế và hoàn cảnh của Nhật Bản khiến nguồn lực con người trở thành yếu tố quyết định đến sự phát triển của các doanh nhân. Điều đó được xem là đương nhiên trong Văn hóa Doanh nhân Nhật Bản. Các doanh nhân khi hoạch định chiến lược kinh doanh luôn coi đào tạo nhân lực và sử dụng tốt con người là khâu trung tâm. Các doanh nhân quan tâm đến điều này rất sớm và thường xuyên. Các doanh nhân thường có hiệp hội và có quĩ học bổng dành cho sinh viên những ngành nghề mà họ quan tâm. Họ không đẩy nhân viên vào tình trạng bị thách đố do không theo kịp sự cải cách quản lí hay tiến bộ của khoa học công nghệ mà chủ động có kế hoạch ngay từ đầu tuyển dụng và thường kì nâng cấp trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên. Các hình thức đào tạo rất đa dạng, nhưng chú trọng các hình thức đào tạo nội bộ mang tính thực tiễn cao. Việc sử dụng người luân chuyển và đề bạt từ dưới lên cũng là một hình thức giúp cho nhân viên hiểu rõ yêu cầu và đặc thù của từng vị trí để họ xác định cách hiệp tác tốt với nhau, hiểu được qui trình chung và trách nhiệm về kết qua cuối cùng, cũng như thuận lợi trong điều hành sau khi được đề bạt. Cách thức ấy cũng làm cho các tầng lớp, thế hệ hiểu nhau, giúp đỡ nhau và cho mọi người cơ hội gắn mình vào một lộ trình công danh rõ ràng trong doanh nghiệp.

Nét độc đáo của VHDN Nhật Bản đã kết tụ rất rõ nét trong Phong cách quản lí kiểu Nhật, là một trong những nguyên nhân chính làm nên sự thành công trong KD của các DN Nhật Bản

2. Một điển hình về văn hoá kinh doanh : Ông Konosuke Matsushita
Konosuke Matsushita (1894 - 1989) là một nhà doanh nghiệp lớn và nổi tiếng của nước Nhật. Ông là người sáng lập ra tập đoàn Matsushita Electric, tập đoàn kinh doanh hùng mạnh nhất nhì Nhật bản. Ngày nay, khắp thế giới, ai cũng biết đến mặt hàng điện tử gia dụng mang nhÂn hiệu National, Panasonic... do tập đoàn Matsushita Electric sản xuất. Matsushita Electric là một tập đoàn đa quốc gia cỡ lớn với khoảng 240.000 nhân viên, hơn 100 chi nhánh và nhà máy hải ngoại, tổng doanh thu hàng năm lên tới trên 56 tỷ USD. Doanh số của tập đoàn tương đương 85% GDP của Singapore hoặc Philippine (1992), gấp 4 lần tổng sản phẩm trong nước của Việt nam năm 1992.
Konosuke Matsushita là ai ?
Đó là cậu bé 9 tuổi của một gia đình nề nếp kiểu Nhật bị khánh kiệt vào những năm đầu của thế kỷ 20, phải rời ghế nhà trường ở độ tuổi thiếu nhi để bước vào học nghề sửa xe đạp ở thành phố Osaka. Mồ côi cha, mẹ từ năm 15, 18 tuổi, tự lực mưu sinh với bệnh phổi hiểm nghèo ngay từ độ tuổi "hoa niên"của cuộc đời. Ông vốn chỉ có trong tay 100 Yên tiền trợ cấp thôi việc, đã gây dựng nên một cơ đồ khổng lồ của hãng Matsushita Electric.
Cuộc đời của Matsushita chính là bản đúc kết kinh nghiệm thành công và cả triển vọng bão tố đối với một dân tộc đã biết bằng sức mạnh của ý chí, tinh thần và tài nghề, tiến lên chinh phục hết mục tiêu này đến mục tiêu khác trong một thế giới cực kỳ phức tạp mà quy luật thị trường còn ghê gớm hơn cả chiến trường.
Ông đã nêu ra một số bài học:
Một là, trong nghệ thuật giải quyết vấn đề, phải thẳng thắn đối mặt với nó, không được để vấn đề vượt khỏi tầm tay.
Hai là, "Vượt qua gian lao càng to lớn, con người càng vĩ đại", " Lớn sóng phải to thuyền", những câu châm ngôn kiểu ấy của Goethe, Tolstoi cho thấy phẩm chất cần có của con người trong thử thách.
Ba là, nên nghĩ những gian lao như liều thuốc quý giúp cho sự phát triển của bạn. Cơn khủng hoảng chính là cơ hội bằng vàng trắc nghiệm khả năng và độ vững bền thự sự của bạn. Từ mỗi thất bại nên rút ra những bài học cho tương lai và dốc sức biến mỗi vận rủi thành vận may...
Các Quan điểm và phương pháp quản lí của Matsutani có sức ảnh hưởng rất lớn trong xã hội Nhật Bản. Triết lí kinh doanh của Matsushita là:
Cần phải "sản xuất" ( đào tạo ) con người trước khi SX ra SP. Con người có qui củ và chất lượng mới mong có SP chất lượng
Ông Matsutani đã nghĩ ra nhiều biện pháp đào trong quản lí nhân sự như: - Luân chuyển nội bộ "Cải thiện điều kiện và môi trường làm việc " Khen thưởng theo tinh thần và giá trị sáng kiến của nhân viên " DN là nơi qui tụ và đào tạo con người - Cần có biện pháp quản lí xí nghiệp sao cho mọi nhân viên cảm thấy họ đang sống và làm việc trong một công ty có hoàn cảnh dễ chịu. Phải đạt được điều "Trăm tướng một lòng, ba quân hợp sức"
Mọi người trong công ty đều phải tự hỏi và trả lời được những câu hỏi: - Vì sao có công ty này - mục đích kinh doanh của Công ty là gì - Tinh thần kinh doanh và những quan điểm chủ đạo là gì
kinh doanh thực sự là cuộc chiến, trong đó sự tồn tại thuộc về khả năng tìm kiếm nơi có nhu cầu tiêu thụ
Những tinh thần chủ đạo của công ty Matsushita mà về sau trở thành những nét chính của Văn hóa Doanh nhân trên đất nước Phù Tang là:
- Doanh nhân phục vụ đất nước
- Quang minh chính đại
- Hòa thuận nhất trí
- Lễ độ khiêm nhường
- Phấn đấu vươn lên
- Đền đáp công ơn
Các qui tắc kinh doanh của Matsushita:Văn hóa kinh doanh Nhật Bản
- Lợi nhuận thu được từ việc phục vụ xã hội đó là niềm tự hào
- Cần nuôi dưỡng niềm tin: Nhờ có công ty của mình thì nền kinh tế xã hội mới vận hành bình thường được
- Phải biết ơn và kính trọng khách hàng: họ là người thân, là người thày của doanh nhân. Phải luôn thấu hiểu cái lí của họ. Phải đáp ứng kì vọng của họ. Họ là trung tâm trong các hoạt động của doanh nhân
- Không vì lấy lòng khách hàng mà hạ thấp nhân viên
- Vấn đề không phải là vốn mà là sự tín nhiệm
- Phấn đấu làm SP chất lượng, nhưng phổ biến sản phẩm đến mọi đối tượng mới quan trọng nhất

- Lợi nhuận thu được từ việc phục vụ xã hội đó là niềm tự hào
- Cần nuôi dưỡng niềm tin: Nhờ có công ty của mình thì nền kinh tế xã hội mới vận hành bình thường được
- Phải biết ơn và kính trọng khách hàng: họ là người thân, là người thày của doanh nhân. Phải luôn thấu hiểu cái lí của họ. Phải đáp ứng kì vọng của họ. Họ là trung tâm trong các hoạt động của doanh nhân
- Không vì lấy lòng khách hàng mà hạ thấp nhân viên
- Vấn đề không phải là vốn mà là sự tín nhiệm
- Phấn đấu làm sản phẩm chất lượng, nhưng phổ biến sản phẩm đến mọi đối tượng mới quan trọng nhất

Nguyễn Tất Thịnh - chuyên gia tư vấn DN - Giảng viên HVHCQG
Trung tâm Văn hóa Doanh nhân
http://www.doanhnhanviet.net.vn/news.asp?news_id=4546&block_id=6
 
Bình luận (4)

quyenjp

Member
Kinh nghiệm Kinh doanh: Nghệ thuật tiếp thị của Kikkoman


Kikkoman hiện đang chiếm 55% thị trường nước tương tại Mỹ.


Từ chỗ chỉ là một doanh nghiệp nhỏ của Nhật Bản, Kikkoman ngày nay đã trở thành hãng sản xuất nước tương hàng đầu thế giới. Quá trình đi đến thành công của Kikkoman cũng là quá trình đưa sản phẩm này thâm nhập vào các nền văn hóa.

Khi còn đang theo học chương trình MBA tại trường đại học Columbia trong những năm 60, vào những kỳ nghỉ hè, Yuzaburo Mogi thường mặc một chiếc tạp dề và đi đến các siêu thị ở New York để phát những gói nhỏ thịt ngâm trong nước tương Kikkoman. Khi đó, đối với những người nội trợ ở Mỹ, loại gia vị này vẫn còn xa lạ cũng như khái niệm về ăn gỏi cá.

Thế nhưng ngày nay, người ta có thể tìm thấy chai nước tương Kikkoman nắp đỏ trong bếp của phần lớn các gia đình tại Mỹ và Kikkoman, nhà sản xuất nước tương lớn nhất thế giới, hiện đang chiếm 55% thị trường Mỹ dành cho loại gia vị này.

Vào thời điểm thành lập năm 1630, Kikkoman chỉ là một doanh nghiệp nhỏ ở vùng Noda, ngoại ô Toyko, Nhật Bản. Ngày nay, công ty này đã và đang không ngừng vươn ra thị trường quốc tế với khoảng ½ lợi nhuận là từ các thị trường nước ngoài. Trong đó, thị trường Mỹ chiếm tới 85% lợi nhuận từ các thị trường nước ngoài của Kikkoman. Hãng cũng chính là một trong những công ty Nhật Bản đầu tiên xây dựng một nhà máy sản xuất hoàn chỉnh tại Mỹ vào năm 1973.

Vị chủ tịch đã 71 tuổi của Kikkoman, không ai khác chính là Yuzaburo Mogi, cho biết, để đưa nước tương từ chỗ là một loại gia vị xa lạ với người Mỹ vào thời điểm cách đây 50 năm trở thành một phần quan trọng của đời sống ẩm thực nước này như hiện nay, nhân viên của Kikkoman, bao gồm cả bản thân ông, đã dành vô số thời gian cho việc tiếp cận khách hàng bằng cách phát những mẫu thịt ngâm nước tương miễn phí cho các bà nội trợ Mỹ.

Thành công của Kikkoman trong việc tìm kiếm thị trường mới là ví dụ cho thấy một loại thức ăn địa phương có thể vượt qua biên giới quốc gia bằng một chiến lược nghiên cứu thị trường và tiếp thị được thiết lập một cách kỹ lưỡng. Mogi nói: “Có hai yếu tố quan trọng dẫn tới thành công của chúng tôi. Trước hết, chúng tôi để khách hàng được trực tiếp nếm sản phẩm. Thứ hai, chúng tôi phát triển các công thức nấu các món ăn bản xứ có sử dụng nước tương. Bởi vì, nếu người tiêu dùng thích vị của nước tương nhưng không biết phải sử dụng như thế nào, họ cũng sẽ không mua sản phẩm”.

Hiện tại, Kikkoman đang phải đối mặt với không ít thách thức. Tốc độ gia tăng doanh số ở thị trường Mỹ đang chững lại do thị trường này đã bão hoà. Ở Nhật Bản, thị trường lớn nhất của Kikkoman, doanh số cũng đã giảm ở mức 2% mỗi năm từ năm 2000 do những thay đổi trong thói quen ăn uống và ngày càng có nhiều phụ nữ Nhật Bản không muốn làm các công việc nội trợ.

Mogi cho biết “Trước đây, phụ nữ Nhật mua nước tương để sử dụng cho các món như miso hay mì. Nhưng ngày nay, ngày càng nhiều phụ nữ đi làm và thời gian nấu nướng do đó đã giảm xuống một cách đáng kể. Bởi vậy, nhu cầu đối với nước tương sẽ giảm xuống trong khi nhu cầu đối với các sản phẩm có thành phần nước tương tăng lên. Ở Mỹ, một xu thế tương tự cũng đã bắt đầu”.

Tại thị trường châu Âu, doanh số của Kikkoman tăng trưởng với tốc độ 10% mỗi năm. Tại thị trường này, những người làm việc tại các công sở thích sử dụng sushi được chế biến sẵn thay cho món sandwich bơ truyền thống vào bữa trưa. Mogi hy vọng doanh số của Kikkoman sẽ tăng trưởng ở mức hai con số vào thập niên tới. Doanh số của hãng cũng đang tăng lên khá nhanh ở thị trường Nga, nơi mà có tới 200 - 300 cửa hàng sushi được mở tại Moscow trong thời gian gần đây.

Có thể nói, số lượng nhà hàng ăn Nhật Bản và lượng nước tương được tiêu thụ tại một thị trường có mối liên hệ mật thiết. Do đó, Mogi rất tích cực trong việc quảng bá đồ ăn Nhật Bản cũng như phương pháp ẩm thực kiểu Nhật Bản có lợi cho sức khỏe. Ông cho rằng, thông qua việc thưởng thức món sushi, người ta sẽ biết đến nước tương.

Theo thống kê của Kikkoman, vào thời điểm năm 2004, có tới 24.000 nhà hàng Nhật Bản ở nước ngoài và dự báo rằng con số này sẽ gấp đôi vào năm 2009.

Theo Mogi, sự phổ biến rộng rãi của các loại thức ăn Nhật Bản và việc tăng cường nhận thức về sức khoẻ sẽ đảm bảo một tương lai tốt đẹp đối với sản phẩm nước tương. Ông rất hào hứng trong việc chứng minh nhận định của mình bằng câu chuyện về hai con chuột được nuôi trong phòng thí nghiệm, một con được cho ăn bằng thức ăn Nhật Bản và một con được ăn thức ăn kiều Mỹ. Kết cục là con chuột thứ hai nặng gấp rưỡi so với con thứ nhất. Ông kết luận, điều đó cho thấy thức ăn Nhật Bản giúp người ta tránh bị thừa cân.

Thị trường tiếp theo mà Kikkoman đang nhằm tới chính là châu Á. Tuy nhiên, chính tại thị trường này, công ty phải đối mặt với thách thức lớn nhất vì mỗi nước châu Á có một thứ nước chấm truyền thống riêng.

Mogi nhận định: “Thị trường châu Á đã có một thứ văn hoá nước chấm riêng. Mỗi quốc gia ở đây có một loại nước chấm có hương vị khác nhau. Chẳng hạn, nước mắm làm từ cá được ưa thích ở Thái Lan và Campuchia còn ở Indonesia, người ta lại thích một thứ nước chấm có vị ngọt làm từ đậu nành”.

Trung Quốc là thị trường tiềm năng nhất đối với Kikkoman ở châu Á mặc dù nước tương Kikkoman có giá cao hơn so với các sản phẩm cùng loại sản xuất tại địa phương tới năm hay sáu lần. Vào năm 2002, Kikkoman xây dựng một nhà máy liên doanh nhỏ ở Thượng Hải và kể từ đó, doanh số của nhà máy này đã tăng nhanh mặc dù lượng hàng bán ra vẫn thấp hơn nhiều so với ở thị trường Mỹ và châu Âu.

Theo Mogi, Kikkoman sẽ phải đợi khoảng 10 năm nữa thì mới chiếm được một thị phần đáng kể ở Trung Quốc và chỉ khi đó công ty mới tiến hành đầu tư lớn tại thị trường này. Ông lạc quan dự báo: “Từ năm 2015, thị trường châu Á sẽ dẫn đầu về tăng trưởng doanh số. Kikkoman không muốn giảm chất lượng sản phẩm, chúng tôi đang đợi người tiêu dùng Trung Quốc mua nước tương của mình. Lượng sản phẩm bán ra còn hạn chế nhưng sẽ tăng lên cùng với sự mở rộng của nền kinh tế Trung Quốc”.

Để hiểu rõ hơn về khẩu vị của người tiêu dùng châu Á, năm ngoái Kikkoman đã thành lập trung tâm nghiên cứu và phát triển đầu tiên ở nước ngoài đầu tiên của hãng tại trường Đại học Singapore. Vì Singapore có một nền văn hóa pha trộn, với trung tâm nghiên cứu và phát triển đặt tại đây, Mogi hy vọng sẽ phát hiện và phát triển được các công thức sản phẩm mới hợp khẩu vị người tiêu dùng Trung Quốc. Mặt khác, Singapore cũng có thể được coi là một thị trường thử nghiệm cho thị trường Ấn Độ, một thị trường tiềm năng khác dành cho Kikkoman.

Kikkoman là một ví dụ tiêu biểu về một công ty biết đa dạng hoá các sản phẩm của mình cho phù hợp với khẩu vị địa phương của từng thị trường. Tại Mỹ, công ty chỉ sản xuất một số ít loại nước tương nhưng tại Nhật Bản, công ty cung cấp tới hơn 100 loại phù hợp với khẩu vị của người Nhật Bản.

Loại nước tương cao cấp nhất của Kikkoman là loại Goyogura dành riêng cho Hoàng gia Nhật Bản. Sản phẩm này được sản xuất bằng những loại nguyên liệu đặc biệt và được lên men trong thời gian một năm trong khi thời gian lên men cho các sản phẩm khác chỉ là 6 tháng. Nước tương Goyogura cũng được bán tại một số siêu thị tại Nhật Bản với mức giá khoảng 6 USD một chai.

Tại Nhật Bản cũng như ở nước ngoài, Kikkoman đang tiến hành hoạt động mua lại các công ty khác nhằm đa dạng hoá các lĩnh vực hoạt động của mình. Lợi nhuận của công ty trong năm tài chính kết thúc vào tháng 3 năm tới được hy vọng là sẽ tăng thêm 10% lên mức kỷ lục 20 tỷ Yên (tương đương với 175 triệu USD).

Trong khi đó, lợi nhuận ổn định và đánh giá hạng A đối vợi nợ dài hạn của Kikkoman do R&I, công ty đánh giá tín nhiệm hàng đầu Nhật Bản, đưa ra đang khiến giới đầu tư chú ý.

Kiều Oanh (Theo FT)
Nguồn VNECONOMY
 

yoshimune777

New Member
các bác học theo kikkoman để phát triển nước mắm phú quốc với tương bần việt nam đê!!
 

Bài viết liên quan

ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
Your content here
Top