Với sự hiện diện mạnh mẽ của mình trong nền kinh tế toàn cầu, Trung Quốc đang sử dụng sự ép buộc về kinh tế bất kể mỗi khi xảy ra vấn đề gì . Để đáp trả những động thái này, các quốc gia khác đang bắt đầu tìm cách "giảm phụ thuộc vào Trung Quốc". Trong khi đó, tại Nhật Bản, quốc gia phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc về mặt kinh tế, con đường phía trước dường nhu vẫn còn rất gập ghềnh.
Phong trào "giảm phụ thuộc vào Trung Quốc" do chia rẽ
Trong vài năm qua, nền kinh tế thế giới đang hướng tới sự chia rẽ theo trục châu Âu và Mỹ, với Trung Quốc và Nga ở trung tâm, do sự gia tăng căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc. Đại dịch COVID-19 bắt đầu ở Trung Quốc và lan rộng trên toàn cầu, cùng với sự kiện chiến tranh ở Ukraine. Trong bối cảnh này, đã có một phong trào ngày càng phát triển nhằm xem xét lại chuỗi cung ứng nhằm mục đích giảm thiểu rủi ro trong các hoạt động kinh tế toàn cầu, và có vẻ như chúng ta đang thấy ngày càng nhiều cụm từ như "giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc" trong bối cảnh này.
Bối cảnh của điều này là nền kinh tế Trung Quốc đã nhanh chóng gia tăng sự hiện diện của mình trong nền kinh tế toàn cầu nhờ vào mức tăng trưởng cao gần đây, đồng thời, sự hiện diện cao này đã khiến cái tôi của Trung Quốc ngày càng lớn. Trong bối cảnh này, các lệnh trừng phạt thương mại không thể biện minh được gọi là "ép buộc kinh tế", nhưng không có định nghĩa rõ ràng nào trong luật pháp quốc tế.
Mỹ định nghĩa ép buộc kinh tế là "các hành động, biện pháp hoặc mối đe dọa của đối thủ nhằm hạn chế hoặc cản trở thương mại, viện trợ nước ngoài hoặc đầu tư theo cách bất đối xứng, tùy tiện hoặc không minh bạch với mục đích gây ra tác hại kinh tế hoặc ảnh hưởng đến chủ quyền chính trị", trong khi EU định nghĩa là "các biện pháp được thực hiện hoặc đe dọa thực hiện các biện pháp ảnh hưởng đến thương mại hoặc đầu tư của một quốc gia thứ ba để gây áp lực buộc EU hoặc các quốc gia thành viên của EU đưa ra một số quyết định chính sách nhất định".
Tại Nhật Bản, khi quan hệ Nhật Bản - Trung Quốc xấu đi sau vụ tai nạn va chạm tàu đánh cá ở quần đảo Senkaku năm 2010, chính phủ Trung Quốc đã thực hiện các biện pháp nhằm giảm đáng kể xuất khẩu kim loại hiếm sang Nhật Bản. Bây giờ, vào năm 2024, Trung Quốc một lần nữa cho thấy dấu hiệu chuyển trọng tâm sang hạn chế xuất khẩu kim loại hiếm và đất hiếm. Ngoài ra, chính phủ Trung Quốc đã thực hiện các biện pháp đình chỉ nhập khẩu hải sản Nhật Bản mà không có bất kỳ lý do khoa học nào để ứng phó với nước đã qua xử lý từ Nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi.
Cảnh giác trước sự ép buộc kinh tế tạo nên sự thống nhất
Trên thực tế, sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc đối với các quốc gia khác đã trở nên phổ biến trong những năm gần đây.
Khi chính quyền Morrison của Úc kêu gọi một cuộc điều tra độc lập về nguồn gốc của đại dịch COVID-19, chính phủ Trung Quốc đã có động thái áp đặt các biện pháp trừng phạt thương mại đối với hàng nhập khẩu từ Úc để trả đũa. Năm 2021, EU cũng chứng kiến chính phủ Trung Quốc áp đặt các biện pháp trừng phạt thương mại đối với hàng nhập khẩu từ Litva sau khi Litva chấp thuận thành lập một cơ quan đại diện tương đương với đại sứ quán Đài Loan.
Tại Nhật Bản, ngoài sự gần gũi về mặt địa lý, đã có xu hướng ngày càng phụ thuộc vào nền kinh tế Trung Quốc kể từ những năm 2000, phù hợp với sự hiện diện ngày càng tăng của Trung Quốc trên toàn cầu với tư cách là "công xưởng của thế giới" sau khi gia nhập WTO, và người ta cho rằng Nhật Bản dễ bị tổn thương hơn trước sự ép buộc kinh tế từ Trung Quốc.
Mặt khác, người ta cũng biết rằng những động thái này của Trung Quốc không nhất thiết có tác động như mong đợi của chính phủ Trung Quốc. Ví dụ, các hạn chế xuất khẩu đất hiếm sang Nhật Bản đã khiến Trung Quốc giảm quyền kiểm soát thị trường đất hiếm trong một thời gian nhất định, vì sau đó khu vực công và tư của Nhật Bản đã hợp tác để giảm lượng đất hiếm được sử dụng và đầu tư vào các quốc gia sản xuất đất hiếm tăng lên. Trong trường hợp của Úc và Litva, xuất khẩu sang Trung Quốc giảm mạnh do các hạn chế nhập khẩu của Trung Quốc, nhưng tác động này phần lớn được bù đắp bằng việc mở rộng xuất khẩu sang các quốc gia và khu vực khác ngoài Trung Quốc.
Hơn nữa, những phản ứng này của Trung Quốc đã khiến nhiều quốc gia trở nên cảnh giác với Trung Quốc và có thể là chất xúc tác cho sự thống nhất theo một nghĩa nào đó. Trong bối cảnh này, nhiều quốc gia cảnh giác với việc gia tăng sự phụ thuộc vào Trung Quốc và được coi là dẫn đến xu hướng tìm cách giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc.
Điều quan trọng nữa là cần lưu ý rằng tác động của sự phụ thuộc vào Trung Quốc sẽ không chỉ ảnh hưởng đến xuất khẩu mà còn đến nhập khẩu.
Nhật Bản là quốc gia phụ thuộc nhiều nhất vào Trung Quốc trong số các nước G7
Theo Sách trắng thương mại năm 2024, một cuộc khảo sát đã được tiến hành để xác định những quốc gia nào nhập khẩu 4.300 mặt hàng tính đến năm 2022 và kết quả cho thấy Trung Quốc chiếm hơn một nửa trong số 1.406 mặt hàng, đây là mức tăng đáng kể so với các quốc gia G7 khác. Cũng có xu hướng Trung Quốc chiếm hơn một nửa thị phần nhập khẩu của các quốc gia G7 khác, nhưng Nhật Bản nổi bật hơn do vị trí địa lý gần và mối quan hệ kinh tế ngày càng sâu sắc trong những năm gần đây. Theo nghĩa đó, có thể nói rằng những nỗ lực giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc là vấn đề cấp bách đối với Nhật Bản so với các quốc gia G7 khác và những rào cản để đạt được điều này là rất lớn.
( Nguồn tiếng Nhật )
Phong trào "giảm phụ thuộc vào Trung Quốc" do chia rẽ
Trong vài năm qua, nền kinh tế thế giới đang hướng tới sự chia rẽ theo trục châu Âu và Mỹ, với Trung Quốc và Nga ở trung tâm, do sự gia tăng căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc. Đại dịch COVID-19 bắt đầu ở Trung Quốc và lan rộng trên toàn cầu, cùng với sự kiện chiến tranh ở Ukraine. Trong bối cảnh này, đã có một phong trào ngày càng phát triển nhằm xem xét lại chuỗi cung ứng nhằm mục đích giảm thiểu rủi ro trong các hoạt động kinh tế toàn cầu, và có vẻ như chúng ta đang thấy ngày càng nhiều cụm từ như "giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc" trong bối cảnh này.
Bối cảnh của điều này là nền kinh tế Trung Quốc đã nhanh chóng gia tăng sự hiện diện của mình trong nền kinh tế toàn cầu nhờ vào mức tăng trưởng cao gần đây, đồng thời, sự hiện diện cao này đã khiến cái tôi của Trung Quốc ngày càng lớn. Trong bối cảnh này, các lệnh trừng phạt thương mại không thể biện minh được gọi là "ép buộc kinh tế", nhưng không có định nghĩa rõ ràng nào trong luật pháp quốc tế.
Mỹ định nghĩa ép buộc kinh tế là "các hành động, biện pháp hoặc mối đe dọa của đối thủ nhằm hạn chế hoặc cản trở thương mại, viện trợ nước ngoài hoặc đầu tư theo cách bất đối xứng, tùy tiện hoặc không minh bạch với mục đích gây ra tác hại kinh tế hoặc ảnh hưởng đến chủ quyền chính trị", trong khi EU định nghĩa là "các biện pháp được thực hiện hoặc đe dọa thực hiện các biện pháp ảnh hưởng đến thương mại hoặc đầu tư của một quốc gia thứ ba để gây áp lực buộc EU hoặc các quốc gia thành viên của EU đưa ra một số quyết định chính sách nhất định".
Tại Nhật Bản, khi quan hệ Nhật Bản - Trung Quốc xấu đi sau vụ tai nạn va chạm tàu đánh cá ở quần đảo Senkaku năm 2010, chính phủ Trung Quốc đã thực hiện các biện pháp nhằm giảm đáng kể xuất khẩu kim loại hiếm sang Nhật Bản. Bây giờ, vào năm 2024, Trung Quốc một lần nữa cho thấy dấu hiệu chuyển trọng tâm sang hạn chế xuất khẩu kim loại hiếm và đất hiếm. Ngoài ra, chính phủ Trung Quốc đã thực hiện các biện pháp đình chỉ nhập khẩu hải sản Nhật Bản mà không có bất kỳ lý do khoa học nào để ứng phó với nước đã qua xử lý từ Nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi.
Cảnh giác trước sự ép buộc kinh tế tạo nên sự thống nhất
Trên thực tế, sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc đối với các quốc gia khác đã trở nên phổ biến trong những năm gần đây.
Khi chính quyền Morrison của Úc kêu gọi một cuộc điều tra độc lập về nguồn gốc của đại dịch COVID-19, chính phủ Trung Quốc đã có động thái áp đặt các biện pháp trừng phạt thương mại đối với hàng nhập khẩu từ Úc để trả đũa. Năm 2021, EU cũng chứng kiến chính phủ Trung Quốc áp đặt các biện pháp trừng phạt thương mại đối với hàng nhập khẩu từ Litva sau khi Litva chấp thuận thành lập một cơ quan đại diện tương đương với đại sứ quán Đài Loan.
Tại Nhật Bản, ngoài sự gần gũi về mặt địa lý, đã có xu hướng ngày càng phụ thuộc vào nền kinh tế Trung Quốc kể từ những năm 2000, phù hợp với sự hiện diện ngày càng tăng của Trung Quốc trên toàn cầu với tư cách là "công xưởng của thế giới" sau khi gia nhập WTO, và người ta cho rằng Nhật Bản dễ bị tổn thương hơn trước sự ép buộc kinh tế từ Trung Quốc.
Mặt khác, người ta cũng biết rằng những động thái này của Trung Quốc không nhất thiết có tác động như mong đợi của chính phủ Trung Quốc. Ví dụ, các hạn chế xuất khẩu đất hiếm sang Nhật Bản đã khiến Trung Quốc giảm quyền kiểm soát thị trường đất hiếm trong một thời gian nhất định, vì sau đó khu vực công và tư của Nhật Bản đã hợp tác để giảm lượng đất hiếm được sử dụng và đầu tư vào các quốc gia sản xuất đất hiếm tăng lên. Trong trường hợp của Úc và Litva, xuất khẩu sang Trung Quốc giảm mạnh do các hạn chế nhập khẩu của Trung Quốc, nhưng tác động này phần lớn được bù đắp bằng việc mở rộng xuất khẩu sang các quốc gia và khu vực khác ngoài Trung Quốc.
Hơn nữa, những phản ứng này của Trung Quốc đã khiến nhiều quốc gia trở nên cảnh giác với Trung Quốc và có thể là chất xúc tác cho sự thống nhất theo một nghĩa nào đó. Trong bối cảnh này, nhiều quốc gia cảnh giác với việc gia tăng sự phụ thuộc vào Trung Quốc và được coi là dẫn đến xu hướng tìm cách giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc.
Điều quan trọng nữa là cần lưu ý rằng tác động của sự phụ thuộc vào Trung Quốc sẽ không chỉ ảnh hưởng đến xuất khẩu mà còn đến nhập khẩu.
Nhật Bản là quốc gia phụ thuộc nhiều nhất vào Trung Quốc trong số các nước G7
Theo Sách trắng thương mại năm 2024, một cuộc khảo sát đã được tiến hành để xác định những quốc gia nào nhập khẩu 4.300 mặt hàng tính đến năm 2022 và kết quả cho thấy Trung Quốc chiếm hơn một nửa trong số 1.406 mặt hàng, đây là mức tăng đáng kể so với các quốc gia G7 khác. Cũng có xu hướng Trung Quốc chiếm hơn một nửa thị phần nhập khẩu của các quốc gia G7 khác, nhưng Nhật Bản nổi bật hơn do vị trí địa lý gần và mối quan hệ kinh tế ngày càng sâu sắc trong những năm gần đây. Theo nghĩa đó, có thể nói rằng những nỗ lực giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc là vấn đề cấp bách đối với Nhật Bản so với các quốc gia G7 khác và những rào cản để đạt được điều này là rất lớn.
( Nguồn tiếng Nhật )
Có thể bạn sẽ thích