Làm việc từ xa, cho phép mọi người làm việc tại nhà hoặc trong khi đi du lịch, đã trở nên phổ biến trong đại dịch Covid , nhưng một cuộc khảo sát do một nhóm nghiên cứu tư nhân thực hiện cho thấy mọi người đang ngày càng quay trở lại văn phòng. Liệu tỷ lệ làm việc từ xa có tiếp tục suy giảm và trở thành điều dĩ vãng hay không ?
Mọi chuyện bắt đầu từ ô nhiễm không khí
Làm việc từ xa, hiện đã được mọi người biết đến rộng rãi, đã có lịch sử khoảng nửa thế kỷ. Ban đầu, nó được gọi là "telecommuting" ở Mỹ và "bắt đầu được sử dụng vào những năm 1970" ( Theo từ điển tiếng Anh Oxford).
Từ này là sự kết hợp của "commuting" (đi lại) và "tele", có nghĩa là "xa" trong tiếng Hy Lạp. Nó giống như điện thoại ( telephone ) và tivi ( television ).
Người sáng tạo ra "telecommuting" được cho là nhà vật lý người Mỹ Jack Nils.
Theo một cuộc phỏng vấn với trường cũ của mình, Nils đã bắt đầu làm việc tại một trường đại học ở Los Angeles, California, vào đầu những năm 1970. Vào thời điểm đó, tình trạng ô nhiễm không khí do tắc nghẽn giao thông ở Los Angeles đang trở nên nghiêm trọng, vì vậy ông ủng hộ việc làm việc tại nhà theo quan điểm về môi trường và năng suất của người lao động. Đây được cho là sự khởi đầu của hình thức làm việc từ xa.
Sau đó, vào tháng 9 năm 1979, tờ Washington Post đã đăng một bài báo nêu rằng "làm việc tại nhà có thể tiết kiệm xăng", điều này đã thúc đẩy hình thức làm việc từ xa lan rộng trong số những công dân Hoa Kỳ đang phải chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng dầu mỏ.
Năm 2010, chính quyền Obama đã ban hành Đạo luật Thúc đẩy Làm việc từ xa và hình thức làm việc từ xa đã trở thành "quyền công dân", với việc các nhân viên liên bang chuyển sang hình thức làm việc từ xa.
Làm việc từ xa tại nhà đã trở nên phổ biến trong đại dịch Corona, nhưng cũng có một phong trào quay trở lại văn phòng, chủ yếu là trong số các công ty công nghệ thông tin lớn của Mỹ.
Đánh giá về các hệ thống làm việc từ xa
Vậy còn Nhật Bản thì sao?
Sau lời kêu gọi "ở nhà" trong đại dịch Corona , làm việc từ xa đã lan rộng như một trong những lựa chọn cho phong cách làm việc.
Nhiều người đã sử dụng hình thức làm việc từ xa và có vẻ như nó đã được phổ cập, nhưng trong một cuộc khảo sát trực tuyến do Viện tư vấn quản lý NTT Data và NTT Com Research thực hiện vào tháng 11 năm 2024 nhắm vào 1.080 nhân viên nam và nữ toàn thời gian trong độ tuổi từ 20 đến 50, 38,5% trả lời rằng công ty của họ có hệ thống làm việc từ xa. Con số này thấp hơn 7,5 điểm so với mức 46,0% của năm trước và là mức giảm trong năm thứ hai liên tiếp.
6,9% trả lời rằng họ đã có hệ thống trong quá khứ nhưng đã bị bãi bỏ (tăng 1,5 điểm), cho thấy hệ thống đang được xem xét lại, nhưng xu hướng bãi bỏ hệ thống này dễ nhận thấy hơn ở các công ty có số lượng nhân viên ít hơn.
Sự phân cực ngày càng tăng
Ngoài ra, trong số những người làm việc tại các công ty có hệ thống, số người trả lời rằng họ không làm việc từ xa đã tăng lên 30,5%, tăng 1,5 điểm.
Tỷ lệ những người làm việc từ xa ít nhất một lần một tuần cũng đã giảm trong hai năm liên tiếp, cho thấy rằng mặc dù hệ thống này vẫn tồn tại, nhưng nó đang được sử dụng ít thường xuyên hơn.
Mặt khác, tỷ lệ những người trả lời rằng họ làm việc "bốn ngày trở lên một tuần" đã tăng 2,2 điểm so với năm trước lên 20,4%. Có sự phân cực giữa những người sử dụng nhiều công việc từ xa và những người không sử dụng nhiều.
Taro Sakamoto, đối tác liên kết tại Viện tư vấn quản lý dữ liệu NTT, đã phân tích tình hình và nói rằng, "Nhiều công ty buộc phải thực hiện các cải cách về phong cách làm việc như làm việc từ xa do đại dịch Corona vì vậy thay vì giảm thì đây là phản ứng dữ dội hơn. Trên thực tế, sẽ tốt hơn nếu coi việc làm từ xa vẫn ở mức vẫn ổn định".
Trong khi các công ty đang đánh giá lại giá trị của việc làm việc trực tiếp và có một phong trào quay trở lại văn phòng, các cuộc họp trực tuyến đã trở nên phổ biến và ngày càng có nhiều người làm việc theo phong cách kết hợp giữa việc đến văn phòng và làm việc từ xa.
Ông Sakamoto cho biết: "Các công ty sẽ phải tìm ra sự thỏa hiệp hợp lý giữa phong cách làm việc nào sẽ mang lại hiệu suất cao tùy thuộc vào mỗi ngành và nhân viên".
( Nguồn tiếng Nhật )
Mọi chuyện bắt đầu từ ô nhiễm không khí
Làm việc từ xa, hiện đã được mọi người biết đến rộng rãi, đã có lịch sử khoảng nửa thế kỷ. Ban đầu, nó được gọi là "telecommuting" ở Mỹ và "bắt đầu được sử dụng vào những năm 1970" ( Theo từ điển tiếng Anh Oxford).
Từ này là sự kết hợp của "commuting" (đi lại) và "tele", có nghĩa là "xa" trong tiếng Hy Lạp. Nó giống như điện thoại ( telephone ) và tivi ( television ).
Người sáng tạo ra "telecommuting" được cho là nhà vật lý người Mỹ Jack Nils.
Theo một cuộc phỏng vấn với trường cũ của mình, Nils đã bắt đầu làm việc tại một trường đại học ở Los Angeles, California, vào đầu những năm 1970. Vào thời điểm đó, tình trạng ô nhiễm không khí do tắc nghẽn giao thông ở Los Angeles đang trở nên nghiêm trọng, vì vậy ông ủng hộ việc làm việc tại nhà theo quan điểm về môi trường và năng suất của người lao động. Đây được cho là sự khởi đầu của hình thức làm việc từ xa.
Sau đó, vào tháng 9 năm 1979, tờ Washington Post đã đăng một bài báo nêu rằng "làm việc tại nhà có thể tiết kiệm xăng", điều này đã thúc đẩy hình thức làm việc từ xa lan rộng trong số những công dân Hoa Kỳ đang phải chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng dầu mỏ.
Năm 2010, chính quyền Obama đã ban hành Đạo luật Thúc đẩy Làm việc từ xa và hình thức làm việc từ xa đã trở thành "quyền công dân", với việc các nhân viên liên bang chuyển sang hình thức làm việc từ xa.
Làm việc từ xa tại nhà đã trở nên phổ biến trong đại dịch Corona, nhưng cũng có một phong trào quay trở lại văn phòng, chủ yếu là trong số các công ty công nghệ thông tin lớn của Mỹ.
Đánh giá về các hệ thống làm việc từ xa
Vậy còn Nhật Bản thì sao?
Sau lời kêu gọi "ở nhà" trong đại dịch Corona , làm việc từ xa đã lan rộng như một trong những lựa chọn cho phong cách làm việc.
Nhiều người đã sử dụng hình thức làm việc từ xa và có vẻ như nó đã được phổ cập, nhưng trong một cuộc khảo sát trực tuyến do Viện tư vấn quản lý NTT Data và NTT Com Research thực hiện vào tháng 11 năm 2024 nhắm vào 1.080 nhân viên nam và nữ toàn thời gian trong độ tuổi từ 20 đến 50, 38,5% trả lời rằng công ty của họ có hệ thống làm việc từ xa. Con số này thấp hơn 7,5 điểm so với mức 46,0% của năm trước và là mức giảm trong năm thứ hai liên tiếp.
6,9% trả lời rằng họ đã có hệ thống trong quá khứ nhưng đã bị bãi bỏ (tăng 1,5 điểm), cho thấy hệ thống đang được xem xét lại, nhưng xu hướng bãi bỏ hệ thống này dễ nhận thấy hơn ở các công ty có số lượng nhân viên ít hơn.
Sự phân cực ngày càng tăng
Ngoài ra, trong số những người làm việc tại các công ty có hệ thống, số người trả lời rằng họ không làm việc từ xa đã tăng lên 30,5%, tăng 1,5 điểm.
Tỷ lệ những người làm việc từ xa ít nhất một lần một tuần cũng đã giảm trong hai năm liên tiếp, cho thấy rằng mặc dù hệ thống này vẫn tồn tại, nhưng nó đang được sử dụng ít thường xuyên hơn.
Mặt khác, tỷ lệ những người trả lời rằng họ làm việc "bốn ngày trở lên một tuần" đã tăng 2,2 điểm so với năm trước lên 20,4%. Có sự phân cực giữa những người sử dụng nhiều công việc từ xa và những người không sử dụng nhiều.
Taro Sakamoto, đối tác liên kết tại Viện tư vấn quản lý dữ liệu NTT, đã phân tích tình hình và nói rằng, "Nhiều công ty buộc phải thực hiện các cải cách về phong cách làm việc như làm việc từ xa do đại dịch Corona vì vậy thay vì giảm thì đây là phản ứng dữ dội hơn. Trên thực tế, sẽ tốt hơn nếu coi việc làm từ xa vẫn ở mức vẫn ổn định".
Trong khi các công ty đang đánh giá lại giá trị của việc làm việc trực tiếp và có một phong trào quay trở lại văn phòng, các cuộc họp trực tuyến đã trở nên phổ biến và ngày càng có nhiều người làm việc theo phong cách kết hợp giữa việc đến văn phòng và làm việc từ xa.
Ông Sakamoto cho biết: "Các công ty sẽ phải tìm ra sự thỏa hiệp hợp lý giữa phong cách làm việc nào sẽ mang lại hiệu suất cao tùy thuộc vào mỗi ngành và nhân viên".
( Nguồn tiếng Nhật )
Có thể bạn sẽ thích