15/1/25 lúc 20:53
Đăng nhập
Đăng ký
Menu
Trang chủ
Diễn đàn
Bài viết mới
Tìm chủ đề
Điểm Tin
Nhật Bản học
Có gì mới
Bài viết mới
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
Tìm kiếm
Đăng nhập
Đăng ký
Bài viết mới
Tìm chủ đề
Đăng nhập
Đăng ký
Trang chủ
Diễn đàn
NHẬT BẢN HỌC-THÔNG TIN NHẬT BẢN
Văn hóa xã hội
Nghề Thủ Công Truyền Thống ở Nhật Bản
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="sakura_hana" data-source="post: 6540" data-attributes="member: 1223"><p><strong>Ðề: Nghề Thủ Công Truyền Thống ở Nhật Bản</strong></p><p></p><p style="text-align: center"><img src="http://ncnb.org.vn/ImagesLiblary/SSM10189.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " style="" /></p><p></p><p><strong>NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG NHẬT BẢN THỜI TRUNG ĐẠI </strong></p><p></p><p>Thời đại Kamakura (1186-1333), xã hội Nhật Bản có những biến động sâu sắc đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nghệ thuật nói chung và nghề thủ công truyền thống nói riêng. Sự hình thành của chế độ Sogun ở Kamakura đã mở màn cho một thời đại vinh quang của phái </p><p></p><p></p><p>quân sự và cũng từ đây nghệ thuật Nhật Bản bước sang một giai đoạn phát triển mới, mang màu sắc hiện thực và thấm đậm ý thức dân tộc. </p><p></p><p>Có một số yếu tố ảnh hưởng chính đến văn hóa nghệ thuật thời đại này, đó là sự giao tiếp với văn hóa đời nhà Tống của Trung Hoa, sự du nhập của Phật giáo Thiền (Zen) và sức mạnh của tinh thần quân sự. Tinh thần mới của thời đại Kamakura đã phản ánh ngay vào trong nghệ thuật, đặc biệt là hội họa. Có thể nói, nghề làm tranh cuộn thời này đã phát triển lên một tầm cao mới, mang đậm tính chất thuần tuý Nhật Bản về đề tài và cách thể hiện với đặc điểm chung là sắc màu rực rỡ và tinh tế. Về điêu khắc, việc xây dựng lại chùa chiền trong chính sách của nhà nước đã kéo theo nhu cầu về tượng Phật và nhờ đó nghề điêu khắc cũng có cơ hội để phát triển lên. Tinh thần quân sự ảnh hưởng vào nghệ thuật điêu khắc khiến cho các tác phẩm thời này nổi bật tinh thần thượng võ quả cảm thể hiện ở các động tác của tượng, khác hẳn dáng thanh tao trầm mặc có ở các tác phẩm thời Fujiwara. Chất liệu điêu khắc chính vẫn là gỗ, nổi trội về tính sinh động, khoẻ khoắn bởi chất liệu gỗ mộc, không tô màu loè loẹt, không cầu kỳ hoa mỹ. Các bức tượng chân dung bằng gỗ thể hiện sự tinh xảo trong nghề thủ công và óc thẩm mỹ đầy sáng tạo của những người thợ Nhật Bản. Nổi bật có hai pho tượng Nio (Nhi Vương) đặt tại chùa Todai cao đến 8,2m dáng dấp đường bệ với cơ thể lực lưỡng trác tuyệt là thành quả của nhà điêu khắc thiên tài Unkei. </p><p></p><p>Các nghề thủ công khác như nghề đúc kim loại, làm đồ gốm, đồ sơn cũng có những bước phát triển đáng kể. Đặc biệt, lúc này tại đại bản doanh của Tướng quân ở Kamakura đã hình thành một trung tâm nghệ thuật mới. Tư tưởng Thiền tông coi trọng sự đơn giản và tính thực dụng đã bắt đầu được thể hiện trong cách sản xuất đồ vật và thị hiếu tiêu dùng. Nghề sản xuất vũ khí vốn đã phát triển ở các thời kỳ trước, đến lúc này càng phát đạt do nhu cầu của các cuộc nội chiến liên miên. Mặt khác, nghề này đã vươn lên thành nghệ thuật bởi việc làm đẹp cho các vị tướng và bản doanh của họ. Tiêu biểu có thể kể đến nghệ thuật làm gươm, làm áo giáp, đặc biệt là loại đại giáp oyoroi tinh xảo và lộng lẫy, được coi là loại giáp trang trí đẹp nhất Thế giới. Về đồ gốm, thời này do việc thông thương với Trung Hoa và ưa chuộng dùng các loại hàng ngoại nhập nên kỹ nghệ gốm trong nước không phát triển lắm, chủ yếu là đồ gốm gia dụng được sản xuất để phục vụ đời sống bình dân. Tuy nhiên, cũng có những phát kiến mới về màu men, ví dụ như men vàng ki-seto. Ngoài ra, nghề làm đồ sơn cũng được chuyển từ Kyoto đến Kamakura, đang dần dần đạt đến độ hoàn mỹ về kiểu trang trí sơn thếp vàng.</p><p></p><p>Thời đại Muromachi (1334-1573) là một thời đại đầy rối ren, hỗn loạn, nhưng đồng thời cũng là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của nghệ thuật. Tướng phủ ở Kamakura tan rã, một lần nữa trung tâm quyền lực chính trị và văn hóa lại được trùng phùng với nhau tại Kyoto, khiến cho nơi đây trở thành cái nôi của sự phát triển các ngành nghệ thuật, trong đó có nghề thủ công truyền thống. Dưới sự bảo trợ của các Shogun, đặc biệt là tướng quân Yoshimasa, nghệ thuật và các trò giải trí thanh tao như trà đạo, kịch No, vườn cảnh đã phát triển tột bậc, kích thích các ngành mỹ thuật công nghiệp phục vụ cho chúng như vẽ tranh cuộn, điêu khắc gỗ, làm đồ kim loại, đồ sơn, đồ gốm tiến thêm một bước mới. Lúc này, thẩm mỹ Thiền đã ảnh hưởng sâu đậm vào phong cách sáng tạo của những nghệ nhân. Tranh mực tàu đen trắng giản dị mà thanh tao đã thay thế cho những bức tranh màu sắc rực rỡ của thời kỳ trước. Người Nhật bắt đầu biết đến kỹ thuật vẽ trên nền lụa hoặc vải lớn theo phong cách Trung Hoa. Cho đến nay vẫn còn lại những bức tranh vẽ trên các màn kéo lớn của các sảnh thất tại tự viện Myoshin ở Kyoto.</p><p></p><p>Điêu khắc thời này chuyển hướng từ đề tài Phật giáo sang điêu khắc chân dung, bởi giáo lý Thiền đề cao tính trọng đại của cá nhân hơn là các hình tượng Phật. Một điều quan trọng là kịch Nô phát triển đã thúc đẩy nghề trạm trổ các mặt nạ Nô với những biểu hiện nét mặt khác nhau. Nói chung, trong nghề điêu khắc gỗ vẫn giữ vai trò nguyên liệu chính, trong khi đó kim loại mất dần vị trí, chuyển thành nguyên liệu để chế tác những sản phẩm phục vụ nhu cầu thực dụng trong cuộc sống hàng ngày của tầng lớp quý tộc. Nghề kim loại vẫn chú trọng vào việc đúc vũ khí, giáp trụ, rèn gươm, đặc biệt còn xuất hiện nghệ thuật làm lá chắn trên chuôi gươm tạo ra một bước phát triển về mỹ thuật trong nghề này.</p><p></p><p>Về nghề sơn, thời này có bước tiến bộ đáng kể về sơn vàng nổi, gọi là nền da lê vàng (nashi-ji). Mỗi họa tiết bằng sơn vàng được áp lên nền sơn, phủ một lớp sơn mỏng lên rồi mài bóng cho bằng phẳng trên bề mặt, trông cực kỳ tinh tế. Còn về đồ gốm, sự phổ biến của trà đạo đã khuyến khích thợ gốm ở khắp nơi sản xuất ra những vật phẩm thích hợp với sự tinh tế của nghi lễ trà. Tiêu biểu có loại gốm sứ Shino yaki với nước men trắng rạn đặc biệt, Joo Shigaraki được tráng men đỏ tươi thẫm hay Imbe yaki với màu nâu đỏ tuyệt hảo của đất sét vùng Bizen. Ngoài ra, các ngành kiến trúc, vườn cảnh phát triển cũng tạo điều kiện cho các nghề thủ công phục vụ việc trang trí nội thất phát triển.</p><p></p><p>Đến thời Momoyama (1574 - 1614), trong vòng 40 năm của thời đại ngắn ngủi nhất trong lịch sử Nhật Bản, nghệ thuật lại thực sự phát triển và có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của nền văn hóa Nhật Bản về sau. Người có công đầu phải kể đến là tướng quân Hideyoshi, quyền thế của ông, sự dám nghĩ dám làm của ông lần đầu tiên đã đem lại cho phong cách nghệ thuật Nhật Bản một quy mô hoành tráng, diễm lệ và rực rỡ. Lúc này, kiến trúc đặc biệt phát triển do việc khuyến khích xây dựng những lâu đài và thành quách rộng lớn. Các ngành nghệ thuật như hội họa có bước phát triển đặc sắc với tư cách trang trí nội thất các dinh thự. Người Nhật bắt đầu chú trọng đến nghề làm bích họa, bình phong. Tranh được vẽ trên tường, trên những bức màn cuốn rộng lớn và các bức ván lùa ngăn phòng. </p><p></p><p>Nghề làm đồ kim loại thời kỳ này cũng chịu ảnh hưởng của không khí chiến thắng và hoa mỹ. Những gam màu nóng, rực rỡ như màu vàng được sử dụng chủ đạo, tạo nên những đồ kim loại mạ vàng và đồ sơn vàng tuyệt đẹp. Còn sản phẩm của nghề này chủ yếu vẫn là phụ gia trang trí bằng kim loại, vũ khí, áo giáp, gươm và đặc biệt còn có nồi sắt dùng trong trà đạo.</p><p></p><p>Nghề làm đồ sơn có bước phát triển theo hướng mới, đó là làm đồ trang trí mỹ nghệ. Chủ yếu các tác phẩm là những mẫu hình hoa lá, chim muông được khắc họa trên tường. Ngoài ra, có một kỹ thuật mới là dát vàng lá trên nền sơn trông thật rực rỡ. Nghề gốm sứ cũng khá phát triển do được khuyến khích bởi các ông tổ của trà đạo như Sen no Rikyu... Nổi tiếng về đồ gốm thời đó có Raku yaki rất được các môn đồ trà đạo ngưỡng mộ. Bên cạnh đó, cũng phải kể đến những trung tâm gốm sứ mới do những thợ gốm Triều Tiên mang kỹ thuật tới như Arita, Satsuma, Chikuzen, Nagato...</p><p></p><p>Thời đại Eđo (1615-1866) được gọi là kỷ nguyên vàng của nghề thủ công truyền thống với các loại hàng hóa sản xuất trên khắp đất nước Nhật Bản. Nếu như ở các thời đại trước, nghệ thuật bị độc chiếm trong tay tầng lớp quý tộc thì đến giai đoạn này nghệ thuật đã được mở rộng tới tầng lớp bình dân. Một nguyên nhân là do trong thời kỳ yên bình nhất của lịch sử này, người dân thường đã dần dần tích lũy được của cải trong khi tầng lớp quý tộc và quân nhân bị sa sút, và cuối cùng thì những người này đã làm hình thành ở Nhật Bản một tầng lớp mới đông đảo mà thị hiếu tiêu dùng của họ đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển nghệ thuật: tầng lớp thị dân. Mặt khác, do chính sách đóng cửa không giao tiếp với bên ngoài của chính phủ trong suốt hai thế kỷ rưỡi, nghệ thuật bản địa mà chủ yếu là nghề thủ công truyền thống đã được dịp khởi sắc. Lúc này, Edo trở thành trung tâm chính trị xã hội quan trọng nhất Nhật Bản, các lãnh chúa đều phải có mặt ở Eđo trong những khoảng thời gian hạn định nên việc xây dựng dinh thất của họ đã kéo theo các thương gia và thợ thủ công tới đây, biến nơi này thành một trung tâm lớn của nghề thủ công truyền thống.</p><p></p><p>Thời đại này, tất cả các nghề thủ công truyền thống đều đạt được sự hưng thịnh tột bậc. Ba nghề thủ công phát triển rực rỡ nhất là nghề gốm sứ, nghề sơn và nghề dệt. Về nghề gốm sứ, các sản phẩm được chế tác vô cùng đa dạng, từ loại gốm đất nung không men (doki), đất nung có men (toki), sành (sekki) và sứ (jiki). Đặc biệt, các nghệ nhân được đưa tới Nhật Bản trong cuộc chinh phạt Triều Tiên đã có công thúc đẩy nghệ thuật làm đồ gốm sứ phát triển. Bên cạnh đó, sự phổ biến của trà đạo trong tầng lớp bình dân cũng là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển của nghề này. Bước tiến bộ vượt bậc của nghề gốm là đã chế tạo ra được nhiều màu sắc và nước men mới đạt độ tinh xảo và rực rỡ tới mức người ta nói rằng những tiêu bản đẹp nhất về màu sắc của đồ gốm chỉ có thể tìm thấy ở gốm sứ thời Edo của Nhật Bản. Các sản phẩm nổi tiếng thời này là gốm Ninsei, sứ Kakiemon, Ironabeshima, Satsuma, Kokutani...</p><p></p><p>Nghề làm đồ sơn cũng đạt tới đỉnh cao về độ tinh xảo với những sản phẩm sơn thiếp vàng có giá trị nghệ thuật cao. Đồ sơn thời này gắn liền với tên tuổi của các nghệ nhân nổi tiếng như Honnami Koetsu, Koami Nagashige, Kajikawa Kyujiro, Ogatakorin, Shiomi Seisei, Komakoryu... Các xưởng sản xuất đồ sơn hầu hết đều tập trung ở Edo và Kyoto, ngoài ra còn có tỉnh Kaga cũng là nơi nổi tiếng.</p><p></p><p>Nghề dệt từ đỉnh cao vào thế kỷ thứ VIII bị chững lại sau nhiều thế kỷ, nay cũng có những tiến bộ đặc sắc. Có thể tìm thấy ở hàng dệt thời Edo những mẫu vải gấm hoặc lụa thêu hoa văn bằng vàng lá lộng lẫy dùng trong sân khấu kịch Nô như kara ori, atsuita, nui haku, suri haku... Bên cạnh đó, nhu cầu làm đẹp của tầng lớp thị dân giàu có cũng thúc đẩy hàng lụa dùng để may kimono phát triển. Có thể nói, đến thời kỳ này, gấm và lụa Nhật Bản đã được Thế giới biết đến như những sản phẩm cao cấp nhất.</p><p></p><p>Ngoài ra, có rất nhiều nghề thủ công sản xuất đồ dùng trong gia đình phát triển như nghề đóng tủ, nghề làm đồ sắt, nghề làm bàn thờ.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="sakura_hana, post: 6540, member: 1223"] [b]Ðề: Nghề Thủ Công Truyền Thống ở Nhật Bản[/b] [CENTER][IMG]http://ncnb.org.vn/ImagesLiblary/SSM10189.jpg[/IMG][/CENTER] [B]NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG NHẬT BẢN THỜI TRUNG ĐẠI [/B] Thời đại Kamakura (1186-1333), xã hội Nhật Bản có những biến động sâu sắc đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nghệ thuật nói chung và nghề thủ công truyền thống nói riêng. Sự hình thành của chế độ Sogun ở Kamakura đã mở màn cho một thời đại vinh quang của phái quân sự và cũng từ đây nghệ thuật Nhật Bản bước sang một giai đoạn phát triển mới, mang màu sắc hiện thực và thấm đậm ý thức dân tộc. Có một số yếu tố ảnh hưởng chính đến văn hóa nghệ thuật thời đại này, đó là sự giao tiếp với văn hóa đời nhà Tống của Trung Hoa, sự du nhập của Phật giáo Thiền (Zen) và sức mạnh của tinh thần quân sự. Tinh thần mới của thời đại Kamakura đã phản ánh ngay vào trong nghệ thuật, đặc biệt là hội họa. Có thể nói, nghề làm tranh cuộn thời này đã phát triển lên một tầm cao mới, mang đậm tính chất thuần tuý Nhật Bản về đề tài và cách thể hiện với đặc điểm chung là sắc màu rực rỡ và tinh tế. Về điêu khắc, việc xây dựng lại chùa chiền trong chính sách của nhà nước đã kéo theo nhu cầu về tượng Phật và nhờ đó nghề điêu khắc cũng có cơ hội để phát triển lên. Tinh thần quân sự ảnh hưởng vào nghệ thuật điêu khắc khiến cho các tác phẩm thời này nổi bật tinh thần thượng võ quả cảm thể hiện ở các động tác của tượng, khác hẳn dáng thanh tao trầm mặc có ở các tác phẩm thời Fujiwara. Chất liệu điêu khắc chính vẫn là gỗ, nổi trội về tính sinh động, khoẻ khoắn bởi chất liệu gỗ mộc, không tô màu loè loẹt, không cầu kỳ hoa mỹ. Các bức tượng chân dung bằng gỗ thể hiện sự tinh xảo trong nghề thủ công và óc thẩm mỹ đầy sáng tạo của những người thợ Nhật Bản. Nổi bật có hai pho tượng Nio (Nhi Vương) đặt tại chùa Todai cao đến 8,2m dáng dấp đường bệ với cơ thể lực lưỡng trác tuyệt là thành quả của nhà điêu khắc thiên tài Unkei. Các nghề thủ công khác như nghề đúc kim loại, làm đồ gốm, đồ sơn cũng có những bước phát triển đáng kể. Đặc biệt, lúc này tại đại bản doanh của Tướng quân ở Kamakura đã hình thành một trung tâm nghệ thuật mới. Tư tưởng Thiền tông coi trọng sự đơn giản và tính thực dụng đã bắt đầu được thể hiện trong cách sản xuất đồ vật và thị hiếu tiêu dùng. Nghề sản xuất vũ khí vốn đã phát triển ở các thời kỳ trước, đến lúc này càng phát đạt do nhu cầu của các cuộc nội chiến liên miên. Mặt khác, nghề này đã vươn lên thành nghệ thuật bởi việc làm đẹp cho các vị tướng và bản doanh của họ. Tiêu biểu có thể kể đến nghệ thuật làm gươm, làm áo giáp, đặc biệt là loại đại giáp oyoroi tinh xảo và lộng lẫy, được coi là loại giáp trang trí đẹp nhất Thế giới. Về đồ gốm, thời này do việc thông thương với Trung Hoa và ưa chuộng dùng các loại hàng ngoại nhập nên kỹ nghệ gốm trong nước không phát triển lắm, chủ yếu là đồ gốm gia dụng được sản xuất để phục vụ đời sống bình dân. Tuy nhiên, cũng có những phát kiến mới về màu men, ví dụ như men vàng ki-seto. Ngoài ra, nghề làm đồ sơn cũng được chuyển từ Kyoto đến Kamakura, đang dần dần đạt đến độ hoàn mỹ về kiểu trang trí sơn thếp vàng. Thời đại Muromachi (1334-1573) là một thời đại đầy rối ren, hỗn loạn, nhưng đồng thời cũng là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của nghệ thuật. Tướng phủ ở Kamakura tan rã, một lần nữa trung tâm quyền lực chính trị và văn hóa lại được trùng phùng với nhau tại Kyoto, khiến cho nơi đây trở thành cái nôi của sự phát triển các ngành nghệ thuật, trong đó có nghề thủ công truyền thống. Dưới sự bảo trợ của các Shogun, đặc biệt là tướng quân Yoshimasa, nghệ thuật và các trò giải trí thanh tao như trà đạo, kịch No, vườn cảnh đã phát triển tột bậc, kích thích các ngành mỹ thuật công nghiệp phục vụ cho chúng như vẽ tranh cuộn, điêu khắc gỗ, làm đồ kim loại, đồ sơn, đồ gốm tiến thêm một bước mới. Lúc này, thẩm mỹ Thiền đã ảnh hưởng sâu đậm vào phong cách sáng tạo của những nghệ nhân. Tranh mực tàu đen trắng giản dị mà thanh tao đã thay thế cho những bức tranh màu sắc rực rỡ của thời kỳ trước. Người Nhật bắt đầu biết đến kỹ thuật vẽ trên nền lụa hoặc vải lớn theo phong cách Trung Hoa. Cho đến nay vẫn còn lại những bức tranh vẽ trên các màn kéo lớn của các sảnh thất tại tự viện Myoshin ở Kyoto. Điêu khắc thời này chuyển hướng từ đề tài Phật giáo sang điêu khắc chân dung, bởi giáo lý Thiền đề cao tính trọng đại của cá nhân hơn là các hình tượng Phật. Một điều quan trọng là kịch Nô phát triển đã thúc đẩy nghề trạm trổ các mặt nạ Nô với những biểu hiện nét mặt khác nhau. Nói chung, trong nghề điêu khắc gỗ vẫn giữ vai trò nguyên liệu chính, trong khi đó kim loại mất dần vị trí, chuyển thành nguyên liệu để chế tác những sản phẩm phục vụ nhu cầu thực dụng trong cuộc sống hàng ngày của tầng lớp quý tộc. Nghề kim loại vẫn chú trọng vào việc đúc vũ khí, giáp trụ, rèn gươm, đặc biệt còn xuất hiện nghệ thuật làm lá chắn trên chuôi gươm tạo ra một bước phát triển về mỹ thuật trong nghề này. Về nghề sơn, thời này có bước tiến bộ đáng kể về sơn vàng nổi, gọi là nền da lê vàng (nashi-ji). Mỗi họa tiết bằng sơn vàng được áp lên nền sơn, phủ một lớp sơn mỏng lên rồi mài bóng cho bằng phẳng trên bề mặt, trông cực kỳ tinh tế. Còn về đồ gốm, sự phổ biến của trà đạo đã khuyến khích thợ gốm ở khắp nơi sản xuất ra những vật phẩm thích hợp với sự tinh tế của nghi lễ trà. Tiêu biểu có loại gốm sứ Shino yaki với nước men trắng rạn đặc biệt, Joo Shigaraki được tráng men đỏ tươi thẫm hay Imbe yaki với màu nâu đỏ tuyệt hảo của đất sét vùng Bizen. Ngoài ra, các ngành kiến trúc, vườn cảnh phát triển cũng tạo điều kiện cho các nghề thủ công phục vụ việc trang trí nội thất phát triển. Đến thời Momoyama (1574 - 1614), trong vòng 40 năm của thời đại ngắn ngủi nhất trong lịch sử Nhật Bản, nghệ thuật lại thực sự phát triển và có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của nền văn hóa Nhật Bản về sau. Người có công đầu phải kể đến là tướng quân Hideyoshi, quyền thế của ông, sự dám nghĩ dám làm của ông lần đầu tiên đã đem lại cho phong cách nghệ thuật Nhật Bản một quy mô hoành tráng, diễm lệ và rực rỡ. Lúc này, kiến trúc đặc biệt phát triển do việc khuyến khích xây dựng những lâu đài và thành quách rộng lớn. Các ngành nghệ thuật như hội họa có bước phát triển đặc sắc với tư cách trang trí nội thất các dinh thự. Người Nhật bắt đầu chú trọng đến nghề làm bích họa, bình phong. Tranh được vẽ trên tường, trên những bức màn cuốn rộng lớn và các bức ván lùa ngăn phòng. Nghề làm đồ kim loại thời kỳ này cũng chịu ảnh hưởng của không khí chiến thắng và hoa mỹ. Những gam màu nóng, rực rỡ như màu vàng được sử dụng chủ đạo, tạo nên những đồ kim loại mạ vàng và đồ sơn vàng tuyệt đẹp. Còn sản phẩm của nghề này chủ yếu vẫn là phụ gia trang trí bằng kim loại, vũ khí, áo giáp, gươm và đặc biệt còn có nồi sắt dùng trong trà đạo. Nghề làm đồ sơn có bước phát triển theo hướng mới, đó là làm đồ trang trí mỹ nghệ. Chủ yếu các tác phẩm là những mẫu hình hoa lá, chim muông được khắc họa trên tường. Ngoài ra, có một kỹ thuật mới là dát vàng lá trên nền sơn trông thật rực rỡ. Nghề gốm sứ cũng khá phát triển do được khuyến khích bởi các ông tổ của trà đạo như Sen no Rikyu... Nổi tiếng về đồ gốm thời đó có Raku yaki rất được các môn đồ trà đạo ngưỡng mộ. Bên cạnh đó, cũng phải kể đến những trung tâm gốm sứ mới do những thợ gốm Triều Tiên mang kỹ thuật tới như Arita, Satsuma, Chikuzen, Nagato... Thời đại Eđo (1615-1866) được gọi là kỷ nguyên vàng của nghề thủ công truyền thống với các loại hàng hóa sản xuất trên khắp đất nước Nhật Bản. Nếu như ở các thời đại trước, nghệ thuật bị độc chiếm trong tay tầng lớp quý tộc thì đến giai đoạn này nghệ thuật đã được mở rộng tới tầng lớp bình dân. Một nguyên nhân là do trong thời kỳ yên bình nhất của lịch sử này, người dân thường đã dần dần tích lũy được của cải trong khi tầng lớp quý tộc và quân nhân bị sa sút, và cuối cùng thì những người này đã làm hình thành ở Nhật Bản một tầng lớp mới đông đảo mà thị hiếu tiêu dùng của họ đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển nghệ thuật: tầng lớp thị dân. Mặt khác, do chính sách đóng cửa không giao tiếp với bên ngoài của chính phủ trong suốt hai thế kỷ rưỡi, nghệ thuật bản địa mà chủ yếu là nghề thủ công truyền thống đã được dịp khởi sắc. Lúc này, Edo trở thành trung tâm chính trị xã hội quan trọng nhất Nhật Bản, các lãnh chúa đều phải có mặt ở Eđo trong những khoảng thời gian hạn định nên việc xây dựng dinh thất của họ đã kéo theo các thương gia và thợ thủ công tới đây, biến nơi này thành một trung tâm lớn của nghề thủ công truyền thống. Thời đại này, tất cả các nghề thủ công truyền thống đều đạt được sự hưng thịnh tột bậc. Ba nghề thủ công phát triển rực rỡ nhất là nghề gốm sứ, nghề sơn và nghề dệt. Về nghề gốm sứ, các sản phẩm được chế tác vô cùng đa dạng, từ loại gốm đất nung không men (doki), đất nung có men (toki), sành (sekki) và sứ (jiki). Đặc biệt, các nghệ nhân được đưa tới Nhật Bản trong cuộc chinh phạt Triều Tiên đã có công thúc đẩy nghệ thuật làm đồ gốm sứ phát triển. Bên cạnh đó, sự phổ biến của trà đạo trong tầng lớp bình dân cũng là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển của nghề này. Bước tiến bộ vượt bậc của nghề gốm là đã chế tạo ra được nhiều màu sắc và nước men mới đạt độ tinh xảo và rực rỡ tới mức người ta nói rằng những tiêu bản đẹp nhất về màu sắc của đồ gốm chỉ có thể tìm thấy ở gốm sứ thời Edo của Nhật Bản. Các sản phẩm nổi tiếng thời này là gốm Ninsei, sứ Kakiemon, Ironabeshima, Satsuma, Kokutani... Nghề làm đồ sơn cũng đạt tới đỉnh cao về độ tinh xảo với những sản phẩm sơn thiếp vàng có giá trị nghệ thuật cao. Đồ sơn thời này gắn liền với tên tuổi của các nghệ nhân nổi tiếng như Honnami Koetsu, Koami Nagashige, Kajikawa Kyujiro, Ogatakorin, Shiomi Seisei, Komakoryu... Các xưởng sản xuất đồ sơn hầu hết đều tập trung ở Edo và Kyoto, ngoài ra còn có tỉnh Kaga cũng là nơi nổi tiếng. Nghề dệt từ đỉnh cao vào thế kỷ thứ VIII bị chững lại sau nhiều thế kỷ, nay cũng có những tiến bộ đặc sắc. Có thể tìm thấy ở hàng dệt thời Edo những mẫu vải gấm hoặc lụa thêu hoa văn bằng vàng lá lộng lẫy dùng trong sân khấu kịch Nô như kara ori, atsuita, nui haku, suri haku... Bên cạnh đó, nhu cầu làm đẹp của tầng lớp thị dân giàu có cũng thúc đẩy hàng lụa dùng để may kimono phát triển. Có thể nói, đến thời kỳ này, gấm và lụa Nhật Bản đã được Thế giới biết đến như những sản phẩm cao cấp nhất. Ngoài ra, có rất nhiều nghề thủ công sản xuất đồ dùng trong gia đình phát triển như nghề đóng tủ, nghề làm đồ sắt, nghề làm bàn thờ. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Thủ đô Việt Nam là?
Gửi trả lời
Trang chủ
Diễn đàn
NHẬT BẢN HỌC-THÔNG TIN NHẬT BẢN
Văn hóa xã hội
Nghề Thủ Công Truyền Thống ở Nhật Bản
Top