Khi người ta nhắc đến “kỳ tích kinh tế Nhật Bản”, những diễn ngôn quen thuộc lập tức xuất hiện: kỷ luật lao động, tinh thần tập thể, văn hóa Samurai, sự chăm chỉ hay năng lực quản trị. Những lời giải thích này được lặp lại nhiều đến mức trở thành “chân lý” mặc định. Nhưng nếu đặt Nhật Bản vào bối cảnh địa chính trị từ 1945 đến 1975, bức tranh lại hoàn toàn khác: Nhật không chỉ phát triển nhờ nội lực, mà còn nhờ một chuỗi vận may lịch sử chưa từng có. Kỳ tích ấy dựa vào cấu trúc quyền lực của Chiến tranh Lạnh hơn là vào khả năng đặc biệt của dân tộc Nhật Bản.
Năm 1945, Nhật là quốc gia kiệt quệ trong đống tro tàn đổ nát: gần một nửa năng lực công nghiệp bị phá huỷ, GDP đầu người chỉ bằng vài phần trăm của Mỹ, sản lượng công nghiệp giảm hơn 40%, nhiều thành phố bị san phẳng. Các chuyên gia thời đó dự đoán Nhật sẽ mất ít nhất 40–50 năm để phục hồi lại mức sống trước chiến tranh. Nhưng chỉ 25 năm sau, Nhật đã trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới. Bước nhảy này không thể lý giải nếu chỉ nói đến “cần cù” hay “kỷ luật”.
Điều quyết định số phận Nhật là việc được Mỹ bảo hộ toàn diện. Trong suốt ba thập niên đầu thời hậu chiến, Nhật chỉ chi khoảng 1% GDP cho quốc phòng – mức thấp phi thường đối với một nền kinh tế công nghiệp. Những nước tự phòng vệ như Anh, Pháp hay Mỹ phải chi 5–10% GDP cho an ninh. Khoản chênh lệch ấy tương đương hàng chục tỷ USD mỗi năm, cho phép Nhật dồn toàn bộ nguồn lực vào hạ tầng, giáo dục, công nghiệp nặng và nghiên cứu kỹ thuật. Một nền kinh tế đang phát triển mà gần như không tốn chi phí quốc phòng là một ngoại lệ hiếm trong lịch sử hiện đại.
Sau an ninh là vận may chiến tranh. Khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ năm 1950, Mỹ biến Nhật thành căn cứ hậu cần lớn nhất. Các đơn hàng sửa chữa, đóng tàu, sản xuất thép, cơ khí, thiết bị quân sự đổ vào Nhật với trị giá tương đương hơn 20% GDP thời điểm đó. Các nhà kinh tế Nhật sau này đều thừa nhận: chính “nhu cầu đặc biệt thời chiến” này giúp Nhật thoát khỏi tình trạng kiệt quệ và khởi động chu kỳ tăng trưởng công nghiệp nhanh chóng.
Nhưng cuộc chiến mang lại tác động lớn nhất lại chính là chiến tranh Việt Nam. Từ giữa thập niên 1960, Mỹ chi hàng chục tỷ USD mỗi năm cho chiến trường Đông Dương. Một phần rất lớn dòng tiền này đi qua Nhật dưới dạng cung ứng, sản xuất thiết bị, nhiên liệu, chế tạo cơ khí, vận tải biển và dịch vụ kỹ thuật. Đây là thời kỳ mà ngành đóng tàu, thép, hóa chất, điện tử và cơ khí chính xác của Nhật tăng trưởng với tốc độ chóng mặt. Nếu không có chiến tranh Việt Nam kéo dài suốt hai thập kỷ, Nhật không thể duy trì tốc độ tăng trưởng hai chữ số trong một giai đoạn dài đến vậy.
Song song với các cuộc chiến là cánh cửa Mỹ mở toang cho hàng hóa Nhật. Nhật được ưu tiên gần như tuyệt đối trong thị trường Mỹ – điều mà Hàn Quốc, Đài Loan, ASEAN hay Trung Quốc thời đó không hề có. Không một quốc gia châu Á nào khác được hưởng lợi từ thị trường Mỹ nhiều như Nhật. Các sản phẩm Nhật – từ radio, máy ảnh đến xe máy và ô tô – tiến vào Mỹ trong bối cảnh không có đối thủ cạnh tranh ngang tầm. Đây là lợi thế chiến lược mà Mỹ dành cho Nhật để tạo ra một đồng minh mạnh ở Đông Á.
Ngoài ra, một yếu tố khác thường bị bỏ quên khi nói về “kỳ tích Nhật Bản” là dòng viện trợ hậu chiến mà Mỹ rót vào Nhật trong giai đoạn 1945–1952. Trong khi nhiều nước châu Á phải tự xoay xở để tái thiết, Nhật nhận được hơn 2 tỷ USD viện trợ trực tiếp từ Hoa Kỳ (quy đổi ra tỷ giá hiện nay tương đương vài chục tỷ USD). Khoản hỗ trợ này bao gồm lương thực, nhiên liệu, máy móc, nguyên liệu thô và cả chuyên gia kỹ thuật, giúp nhiều ngành công nghiệp then chốt – thép, cơ khí, điện lực, đóng tàu – được khởi động lại cực nhanh.Viện trợ này đóng vai trò như “bộ đệm an toàn” giúp Nhật tránh được khủng hoảng kinh tế – xã hội sau chiến tranh: lạm phát không bị mất kiểm soát, thất nghiệp không bùng nổ, và hệ thống công nghiệp không bị tê liệt quá lâu. Nếu không có nguồn ODA này, Nhật khó có thể bước vào thời kỳ tăng tốc để tận dụng tiếp các vận may như Chiến tranh Triều Tiên hay thị trường Mỹ mở cửa.
Tất cả những thuận lợi về địa chính trị trên đây của Nhật chỉ có thể hoạt động trong thế giới "hòa bình kiểu Mỹ"(Pax Americana) – một trật tự thế giới nơi Mỹ kiểm soát tuyến hàng hải, bảo vệ thương mại toàn cầu và duy trì ổn định chính trị quốc tế. Nhật chỉ cần tập trung sản xuất mà không phải gánh chi phí bảo đảm an ninh hay kiểm soát đường biển. Không có môi trường này, ngành xuất khẩu Nhật không thể phát triển với nhịp độ phi thường như vậy.
Cần nói rõ rằng cũng giống như các quốc gia khác, Nhật có những nội lực riêng rất mạnh: nền giáo dục phổ cập sớm, lực lượng kỹ sư kỷ luật cao, văn hóa doanh nghiệp coi trọng chất lượng, và tinh thần tiết kiệm – tích lũy vốn thuộc top đầu châu Á thời hậu chiến. Những yếu tố này giúp Nhật hấp thụ công nghệ nhanh, duy trì năng suất lao động ổn định và xây dựng được các ngành công nghiệp có năng lực cạnh tranh toàn cầu.
Tuy nhiên, chỉ những nội lực ấy không đủ để giải thích tốc độ tăng trưởng thần tốc của Nhật sau 1945. Bởi lẽ các quốc gia Đông Á khác như Hàn Quốc, Đài Loan hay Singapore về sau cũng có những đặc điểm tương tự – thậm chí học trực tiếp mô hình Nhật Bản – nhưng phải mất nhiều thời gian hơn để đạt mức thu nhập tương đương. Điều tạo ra khác biệt chính là bối cảnh địa chính trị: Nhật được Mỹ bảo vệ an ninh gần như tuyệt đối, được hưởng thị trường Mỹ mở cửa hoàn toàn, được bơm dòng viện trợ và chi tiêu chiến tranh quy mô lớn, và có thời điểm đứng đúng “vị trí vàng” trong chiến lược chống Liên Xô của Mỹ.
Nhưng chính mô hình phát triển dựa vào vận may là chính ấy đã gieo mầm cho sự trì trệ về sau. Khi bong bóng kinh tế vỡ đầu thập niên 1990, Mỹ thay đổi chiến lược, Trung Quốc và Hàn Quốc vươn lên mạnh mẽ, thị trường thế giới cạnh tranh khốc liệt hơn, và Nhật lần đầu tiên phải dựa vào đúng nội lực thật sự của mình. Lúc đó, những điểm yếu vốn bị che lấp bởi ngoại lực dựa vào vận may của Nhật mới lộ diện: dân số già hóa nhanh, hệ thống quan liêu cứng nhắc, doanh nghiệp thiếu đổi mới, chính trị bảo thủ, xã hội ngại cải cách, năng suất không tăng. Từ 1995 đến 2023, GDP danh nghĩa của Nhật tính theo USD giảm 24%, tiền lương thực tế gần như đứng yên, và vai trò trong chuỗi giá trị toàn cầu suy giảm rõ rệt.
Nhìn vào quá trình phát triển của kinh tế Nhât Bản, ta thấy một sự thật đơn giản nhưng thường bị che giấu: Nhật Bản không giàu lên nhờ “trình độ khoa học kỹ thuật cao” hay “tinh thần dân tộc độc đáo”, mà nhờ vận may địa chính trị. Nhật được đặt vào đúng vị trí trong đúng thời điểm, được bảo đảm an ninh miễn phí, được hưởng lợi lớn từ hai cuộc chiến tranh Tiều Tiên và Việt Nam, được tiếp cận thị trường Mỹ không hạn chế, được hoạt động trong một trật tự thế giới ổn định và được ưu ái để trở thành thành trì chống cộng sản ở châu Á. Nếu Việt Nam, Thái Lan hay Philippines được đặt vào đúng những điều kiện ấy vào năm 1950, quá trình công nghiệp hóa của họ cũng có thể diễn ra nhanh không kém – thậm chí còn thuận lợi hơn nhờ dân số trẻ và thị trường lao động lớn.
Kỳ tích Nhật Bản thực chất là kỳ tích của bối cảnh. Khi bối cảnh thuận lợi, một nước bại trận có thể trở thành cường quốc chỉ trong hai thập niên. Khi bối cảnh thay đổi và vận may biến mất, sự trì trệ kéo dài hàng thế hệ cũng là điều tất yếu. Đây không phải cái nhìn bi quan, mà là cách đặt sự phát triển của Nhật vào đúng vị trí lịch sử của nó. Quốc gia nào cũng có thể trỗi dậy nếu được đặt trong đúng “cửa sổ cơ hội”. Và quốc gia nào cũng có thể suy yếu nếu không kịp tái thiết khi cửa sổ ấy đóng lại. Do đó, để đất nước phát triển việc nắm bắt cơ hội là rất quan trọng. Nhưng để duy trì phát triển bền vững thì đất nước đó cần phải tự tạo ra và nuôi dưỡng nội lực của chính mình. Chỉ khi nội lực của đất nước được phát hiện, phát triển và sử dụng một cách thích hợp đúng chiến lược thì đất nước đó mới có chỗ đứng thật sự trên bàn cờ kinh tế, chính trị quốc tế.
Năm 1945, Nhật là quốc gia kiệt quệ trong đống tro tàn đổ nát: gần một nửa năng lực công nghiệp bị phá huỷ, GDP đầu người chỉ bằng vài phần trăm của Mỹ, sản lượng công nghiệp giảm hơn 40%, nhiều thành phố bị san phẳng. Các chuyên gia thời đó dự đoán Nhật sẽ mất ít nhất 40–50 năm để phục hồi lại mức sống trước chiến tranh. Nhưng chỉ 25 năm sau, Nhật đã trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới. Bước nhảy này không thể lý giải nếu chỉ nói đến “cần cù” hay “kỷ luật”.
Điều quyết định số phận Nhật là việc được Mỹ bảo hộ toàn diện. Trong suốt ba thập niên đầu thời hậu chiến, Nhật chỉ chi khoảng 1% GDP cho quốc phòng – mức thấp phi thường đối với một nền kinh tế công nghiệp. Những nước tự phòng vệ như Anh, Pháp hay Mỹ phải chi 5–10% GDP cho an ninh. Khoản chênh lệch ấy tương đương hàng chục tỷ USD mỗi năm, cho phép Nhật dồn toàn bộ nguồn lực vào hạ tầng, giáo dục, công nghiệp nặng và nghiên cứu kỹ thuật. Một nền kinh tế đang phát triển mà gần như không tốn chi phí quốc phòng là một ngoại lệ hiếm trong lịch sử hiện đại.
Sau an ninh là vận may chiến tranh. Khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ năm 1950, Mỹ biến Nhật thành căn cứ hậu cần lớn nhất. Các đơn hàng sửa chữa, đóng tàu, sản xuất thép, cơ khí, thiết bị quân sự đổ vào Nhật với trị giá tương đương hơn 20% GDP thời điểm đó. Các nhà kinh tế Nhật sau này đều thừa nhận: chính “nhu cầu đặc biệt thời chiến” này giúp Nhật thoát khỏi tình trạng kiệt quệ và khởi động chu kỳ tăng trưởng công nghiệp nhanh chóng.
Nhưng cuộc chiến mang lại tác động lớn nhất lại chính là chiến tranh Việt Nam. Từ giữa thập niên 1960, Mỹ chi hàng chục tỷ USD mỗi năm cho chiến trường Đông Dương. Một phần rất lớn dòng tiền này đi qua Nhật dưới dạng cung ứng, sản xuất thiết bị, nhiên liệu, chế tạo cơ khí, vận tải biển và dịch vụ kỹ thuật. Đây là thời kỳ mà ngành đóng tàu, thép, hóa chất, điện tử và cơ khí chính xác của Nhật tăng trưởng với tốc độ chóng mặt. Nếu không có chiến tranh Việt Nam kéo dài suốt hai thập kỷ, Nhật không thể duy trì tốc độ tăng trưởng hai chữ số trong một giai đoạn dài đến vậy.
Song song với các cuộc chiến là cánh cửa Mỹ mở toang cho hàng hóa Nhật. Nhật được ưu tiên gần như tuyệt đối trong thị trường Mỹ – điều mà Hàn Quốc, Đài Loan, ASEAN hay Trung Quốc thời đó không hề có. Không một quốc gia châu Á nào khác được hưởng lợi từ thị trường Mỹ nhiều như Nhật. Các sản phẩm Nhật – từ radio, máy ảnh đến xe máy và ô tô – tiến vào Mỹ trong bối cảnh không có đối thủ cạnh tranh ngang tầm. Đây là lợi thế chiến lược mà Mỹ dành cho Nhật để tạo ra một đồng minh mạnh ở Đông Á.
Ngoài ra, một yếu tố khác thường bị bỏ quên khi nói về “kỳ tích Nhật Bản” là dòng viện trợ hậu chiến mà Mỹ rót vào Nhật trong giai đoạn 1945–1952. Trong khi nhiều nước châu Á phải tự xoay xở để tái thiết, Nhật nhận được hơn 2 tỷ USD viện trợ trực tiếp từ Hoa Kỳ (quy đổi ra tỷ giá hiện nay tương đương vài chục tỷ USD). Khoản hỗ trợ này bao gồm lương thực, nhiên liệu, máy móc, nguyên liệu thô và cả chuyên gia kỹ thuật, giúp nhiều ngành công nghiệp then chốt – thép, cơ khí, điện lực, đóng tàu – được khởi động lại cực nhanh.Viện trợ này đóng vai trò như “bộ đệm an toàn” giúp Nhật tránh được khủng hoảng kinh tế – xã hội sau chiến tranh: lạm phát không bị mất kiểm soát, thất nghiệp không bùng nổ, và hệ thống công nghiệp không bị tê liệt quá lâu. Nếu không có nguồn ODA này, Nhật khó có thể bước vào thời kỳ tăng tốc để tận dụng tiếp các vận may như Chiến tranh Triều Tiên hay thị trường Mỹ mở cửa.
Tất cả những thuận lợi về địa chính trị trên đây của Nhật chỉ có thể hoạt động trong thế giới "hòa bình kiểu Mỹ"(Pax Americana) – một trật tự thế giới nơi Mỹ kiểm soát tuyến hàng hải, bảo vệ thương mại toàn cầu và duy trì ổn định chính trị quốc tế. Nhật chỉ cần tập trung sản xuất mà không phải gánh chi phí bảo đảm an ninh hay kiểm soát đường biển. Không có môi trường này, ngành xuất khẩu Nhật không thể phát triển với nhịp độ phi thường như vậy.
Cần nói rõ rằng cũng giống như các quốc gia khác, Nhật có những nội lực riêng rất mạnh: nền giáo dục phổ cập sớm, lực lượng kỹ sư kỷ luật cao, văn hóa doanh nghiệp coi trọng chất lượng, và tinh thần tiết kiệm – tích lũy vốn thuộc top đầu châu Á thời hậu chiến. Những yếu tố này giúp Nhật hấp thụ công nghệ nhanh, duy trì năng suất lao động ổn định và xây dựng được các ngành công nghiệp có năng lực cạnh tranh toàn cầu.
Tuy nhiên, chỉ những nội lực ấy không đủ để giải thích tốc độ tăng trưởng thần tốc của Nhật sau 1945. Bởi lẽ các quốc gia Đông Á khác như Hàn Quốc, Đài Loan hay Singapore về sau cũng có những đặc điểm tương tự – thậm chí học trực tiếp mô hình Nhật Bản – nhưng phải mất nhiều thời gian hơn để đạt mức thu nhập tương đương. Điều tạo ra khác biệt chính là bối cảnh địa chính trị: Nhật được Mỹ bảo vệ an ninh gần như tuyệt đối, được hưởng thị trường Mỹ mở cửa hoàn toàn, được bơm dòng viện trợ và chi tiêu chiến tranh quy mô lớn, và có thời điểm đứng đúng “vị trí vàng” trong chiến lược chống Liên Xô của Mỹ.
Nhưng chính mô hình phát triển dựa vào vận may là chính ấy đã gieo mầm cho sự trì trệ về sau. Khi bong bóng kinh tế vỡ đầu thập niên 1990, Mỹ thay đổi chiến lược, Trung Quốc và Hàn Quốc vươn lên mạnh mẽ, thị trường thế giới cạnh tranh khốc liệt hơn, và Nhật lần đầu tiên phải dựa vào đúng nội lực thật sự của mình. Lúc đó, những điểm yếu vốn bị che lấp bởi ngoại lực dựa vào vận may của Nhật mới lộ diện: dân số già hóa nhanh, hệ thống quan liêu cứng nhắc, doanh nghiệp thiếu đổi mới, chính trị bảo thủ, xã hội ngại cải cách, năng suất không tăng. Từ 1995 đến 2023, GDP danh nghĩa của Nhật tính theo USD giảm 24%, tiền lương thực tế gần như đứng yên, và vai trò trong chuỗi giá trị toàn cầu suy giảm rõ rệt.
Nhìn vào quá trình phát triển của kinh tế Nhât Bản, ta thấy một sự thật đơn giản nhưng thường bị che giấu: Nhật Bản không giàu lên nhờ “trình độ khoa học kỹ thuật cao” hay “tinh thần dân tộc độc đáo”, mà nhờ vận may địa chính trị. Nhật được đặt vào đúng vị trí trong đúng thời điểm, được bảo đảm an ninh miễn phí, được hưởng lợi lớn từ hai cuộc chiến tranh Tiều Tiên và Việt Nam, được tiếp cận thị trường Mỹ không hạn chế, được hoạt động trong một trật tự thế giới ổn định và được ưu ái để trở thành thành trì chống cộng sản ở châu Á. Nếu Việt Nam, Thái Lan hay Philippines được đặt vào đúng những điều kiện ấy vào năm 1950, quá trình công nghiệp hóa của họ cũng có thể diễn ra nhanh không kém – thậm chí còn thuận lợi hơn nhờ dân số trẻ và thị trường lao động lớn.
Kỳ tích Nhật Bản thực chất là kỳ tích của bối cảnh. Khi bối cảnh thuận lợi, một nước bại trận có thể trở thành cường quốc chỉ trong hai thập niên. Khi bối cảnh thay đổi và vận may biến mất, sự trì trệ kéo dài hàng thế hệ cũng là điều tất yếu. Đây không phải cái nhìn bi quan, mà là cách đặt sự phát triển của Nhật vào đúng vị trí lịch sử của nó. Quốc gia nào cũng có thể trỗi dậy nếu được đặt trong đúng “cửa sổ cơ hội”. Và quốc gia nào cũng có thể suy yếu nếu không kịp tái thiết khi cửa sổ ấy đóng lại. Do đó, để đất nước phát triển việc nắm bắt cơ hội là rất quan trọng. Nhưng để duy trì phát triển bền vững thì đất nước đó cần phải tự tạo ra và nuôi dưỡng nội lực của chính mình. Chỉ khi nội lực của đất nước được phát hiện, phát triển và sử dụng một cách thích hợp đúng chiến lược thì đất nước đó mới có chỗ đứng thật sự trên bàn cờ kinh tế, chính trị quốc tế.