Tại sao nên chuyển sang đầu tư tài sản vô hình
Để cải thiện sức mạnh thương hiệu và tăng giá trị doanh nghiệp, cần tận dụng tối đa tài sản trí tuệ có hiệu quả trong việc duy trì lợi thế cạnh tranh và sự khác biệt của mình trong tương lai.
Để làm được điều này, các doanh nghiệp cần tích cực đầu tư vào mạng lưới khách hàng, cải thiện khả năng sáng tạo của chính mình thông qua nghiên cứu và phát triển, đồng thời kết hợp bí quyết từ bên ngoài.
Nhiều công ty Nhật Bản nổi trội trong "sản xuất" đã chủ động đầu tư vào tài sản hữu hình để cải thiện công nghệ cứng của họ, nhưng đã đến lúc chuyển sang đầu tư vào tài sản vô hình.
Nhiều người có thể không hiểu các thuật ngữ "tài sản hữu hình" và "tài sản vô hình", nhưng tài sản hữu hình đề cập đến các cơ sở sản xuất vật chất như máy móc và nhà máy.
Ngược lại, tài sản vô hình (tài sản trí tuệ) đề cập đến các tài sản vô hình như thương hiệu, nguồn nhân lực, công nghệ và bí quyết, cũng như nghiên cứu và phát triển. Chúng không chỉ bao gồm các quyền sở hữu trí tuệ như bằng sáng chế, nhãn hiệu, quyền thiết kế và bản quyền, mà còn bao gồm dữ liệu, mạng lưới khách hàng, sự tin tưởng và chuỗi cung ứng.
Rộng hơn, chúng cũng bao gồm các năng lực và quy trình tổ chức tạo ra những điều này. Một mô hình quản lý kết hợp hiệu quả các tài sản vô hình độc đáo của mỗi công ty để tạo ra lợi nhuận được gọi là "quản lý tài sản trí tuệ".
Theo bản tóm tắt của "Sách trắng về doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp nhỏ" (phiên bản năm 2022), đầu tư vào tài sản vô hình có tỷ lệ tăng năng suất tổng yếu tố cao hơn (một yếu tố tạo ra tăng trưởng kinh tế không thể giải thích bằng đầu vào vốn hoặc đầu vào lao động). Điều này có nghĩa là nó đóng góp rất lớn vào việc cải thiện năng suất so với đầu tư vào tài sản hữu hình. Tài sản vô hình cũng được ghi nhận vì các đặc điểm kinh tế, chẳng hạn như mang lại sự đổi mới và đang thu hút sự chú ý như một phương tiện thúc đẩy việc cải thiện giá trị gia tăng.
Tại Mỹ, đầu tư vào tài sản vô hình đã vượt qua đầu tư vào tài sản hữu hình vào những năm 1990 để tăng giá trị doanh nghiệp, trong khi ở Nhật Bản, đầu tư vào tài sản hữu hình đã vượt qua vào những năm 2000 và xu hướng nhấn mạnh vào tài sản hữu hình vẫn không thay đổi.
Điều này là do đầu tư vào tài sản hữu hình là một phương pháp đầu tư phổ biến đối với "Nhật Bản, quốc gia sản xuất". Nhật Bản, quốc gia đã dành riêng để cải thiện tính hoàn thiện của sản phẩm bằng cách nâng cấp máy móc, được cho là có tỷ lệ đầu tư vào tài sản sáng tạo rất cao trong số các quốc gia phát triển.
Cần có góc nhìn về "tạo ra giá trị doanh nghiệp" trong bối cảnh hiện tại
Tuy nhiên, có một giới hạn trong việc tạo ra giá trị gia tăng thông qua đầu tư vào tài sản hữu hình. Giá trị gia tăng thu được thông qua sản xuất được đo bằng chênh lệch giữa giá trị của sản phẩm hoàn thiện và chi phí đầu vào, và đây là một lợi thế vượt trội đối với các quốc gia mới nổi có tỷ giá hối đoái và chi phí lao động thấp.
Mỹ huyển sang con đường tạo ra giá trị gia tăng thông qua đầu tư vào tài sản vô hình, tin rằng họ sẽ không thể cạnh tranh với các quốc gia mới nổi có tỷ giá hối đoái và chi phí lao động thấp hơn nếu chỉ dựa vào việc tạo ra giá trị gia tăng thông qua đầu tư vào tài sản hữu hình.
Trong khi Mỹ và các quốc gia khác tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, Nhật Bản lại đắm chìm vào "sản xuất", lĩnh vực có năng lực công nghệ vượt trội so với các nước đang phát triển. Người ta tin rằng "nếu bạn tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, chúng sẽ bán được", nhưng chính thị trường mới nổi đã tăng trưởng nhanh chóng sau những năm 1990.
Ở đó, thu nhập của người tiêu dùng không cao và các sản phẩm của Nhật Bản "rẻ so với chất lượng" đã trở nên quá mức. Nói cách khác, các nước nhiệt đới không cần máy điều hòa không khí kiểm soát nhiệt độ bằng cảm biến công nghệ cao.
Mặc dù có một số người chiến thắng, nhưng họ không thể nắm bắt hoàn toàn thị trường và bỏ lỡ cơ hội thoát khỏi mô hình kinh doanh theo phong cách quốc gia mới nổi. Kết quả là, Nhật Bản đã phải chịu suy thoái kinh tế và mức lương thấp cho công dân của mình, tình trạng này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay.
Trong cùng thời kỳ, Mỹ đã tạo ra "sự bất đối xứng thông tin" trong công nghệ số và thành công trong các nền tảng số và doanh nghiệp dữ liệu do GAFA đại diện, vì vậy sự khác biệt về phán đoán giữa các nhà quản lý Nhật Bản và Mỹ vào giữa những năm 1990 là rất lớn.
Trong thời gian này, có thể nói rằng những gì mọi người trên khắp thế giới muốn không còn là công nghệ tiên tiến nữa. Thay vì hiệu suất của một sản phẩm duy nhất liên tục được cải thiện, sự chú ý đã tập trung vào sự tiện lợi và thú vị mà công nghệ tiên tiến mang lại mà trước đây không có. Thật khó để đạt được giá trị gia tăng cao chỉ bằng cách xây dựng nhà máy và giới thiệu máy móc tiên tiến để cải thiện hiệu suất và chất lượng của chính sản phẩm.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng các ngành công nghiệp thâm dụng tài sản vô hình có năng suất cao và trọng tâm của tăng trưởng kinh tế đang chuyển từ tài sản hữu hình sang tài sản vô hình. Tài sản vô hình, được thể hiện bằng sở hữu trí tuệ, tạo sự khác biệt cho sản phẩm và dịch vụ, duy trì và củng cố sức mạnh định giá. Hoặc chúng có thể gây ra sự đổi mới mang tính đột phá. Đối với các công ty Nhật Bản, những công ty buộc phải củng cố sức mạnh thương hiệu để ứng phó với thị trường trong nước đang thu hẹp, việc đầu tư vào tài sản vô hình càng trở nên cấp thiết hơn.
Mặt khác, để ứng phó với thị trường đang thu hẹp, điều quan trọng là phải cải thiện hiệu quả sử dụng vốn cũng như củng cố sức mạnh thương hiệu. Có nhiều trường hợp không rõ ràng ngay lập tức đã đầu tư bao nhiêu vốn để tạo ra lợi nhuận, nhưng để theo đuổi "lợi nhuận cao và doanh số thấp", điều quan trọng là phải nhận thức đầy đủ về điểm này.
Gần đây, một chỉ số có tên là "ROIC" (Lợi nhuận trên vốn đầu tư) đã thu hút được sự chú ý. Đây là một chỉ số thuận tiện để đo lường mức độ hiệu quả của lợi nhuận so với việc huy động vốn từ các khoản đầu tư của cổ đông (vốn chủ sở hữu) và vay từ các tổ chức tài chính (nợ có lãi). Nếu tạo ra được nhiều lợi nhuận mặc dù số tiền huy động được ít, con số này sẽ cao. Nói cách khác, ROIC cho biết có bao nhiêu lợi nhuận (lợi nhuận) được tạo ra từ các quỹ đầu tư vào doanh nghiệp.
Trong thời đại mà thế hệ lao động đang giảm dần và cần phải thu hẹp chiến lược, các nguồn lực quản lý phải được tập trung. Thay vì quan điểm cho rằng giá trị doanh nghiệp được tạo ra do quản lý, như trường hợp của nhiều công ty Nhật Bản cho đến nay, thì cần phải có quan điểm "tạo ra giá trị doanh nghiệp" xem xét loại hình quản lý nào nên được thực hiện để tạo ra giá trị doanh nghiệp.
( Nguồn tiếng Nhật )
Để cải thiện sức mạnh thương hiệu và tăng giá trị doanh nghiệp, cần tận dụng tối đa tài sản trí tuệ có hiệu quả trong việc duy trì lợi thế cạnh tranh và sự khác biệt của mình trong tương lai.
Để làm được điều này, các doanh nghiệp cần tích cực đầu tư vào mạng lưới khách hàng, cải thiện khả năng sáng tạo của chính mình thông qua nghiên cứu và phát triển, đồng thời kết hợp bí quyết từ bên ngoài.
Nhiều công ty Nhật Bản nổi trội trong "sản xuất" đã chủ động đầu tư vào tài sản hữu hình để cải thiện công nghệ cứng của họ, nhưng đã đến lúc chuyển sang đầu tư vào tài sản vô hình.
Nhiều người có thể không hiểu các thuật ngữ "tài sản hữu hình" và "tài sản vô hình", nhưng tài sản hữu hình đề cập đến các cơ sở sản xuất vật chất như máy móc và nhà máy.
Ngược lại, tài sản vô hình (tài sản trí tuệ) đề cập đến các tài sản vô hình như thương hiệu, nguồn nhân lực, công nghệ và bí quyết, cũng như nghiên cứu và phát triển. Chúng không chỉ bao gồm các quyền sở hữu trí tuệ như bằng sáng chế, nhãn hiệu, quyền thiết kế và bản quyền, mà còn bao gồm dữ liệu, mạng lưới khách hàng, sự tin tưởng và chuỗi cung ứng.
Rộng hơn, chúng cũng bao gồm các năng lực và quy trình tổ chức tạo ra những điều này. Một mô hình quản lý kết hợp hiệu quả các tài sản vô hình độc đáo của mỗi công ty để tạo ra lợi nhuận được gọi là "quản lý tài sản trí tuệ".
Theo bản tóm tắt của "Sách trắng về doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp nhỏ" (phiên bản năm 2022), đầu tư vào tài sản vô hình có tỷ lệ tăng năng suất tổng yếu tố cao hơn (một yếu tố tạo ra tăng trưởng kinh tế không thể giải thích bằng đầu vào vốn hoặc đầu vào lao động). Điều này có nghĩa là nó đóng góp rất lớn vào việc cải thiện năng suất so với đầu tư vào tài sản hữu hình. Tài sản vô hình cũng được ghi nhận vì các đặc điểm kinh tế, chẳng hạn như mang lại sự đổi mới và đang thu hút sự chú ý như một phương tiện thúc đẩy việc cải thiện giá trị gia tăng.
Tại Mỹ, đầu tư vào tài sản vô hình đã vượt qua đầu tư vào tài sản hữu hình vào những năm 1990 để tăng giá trị doanh nghiệp, trong khi ở Nhật Bản, đầu tư vào tài sản hữu hình đã vượt qua vào những năm 2000 và xu hướng nhấn mạnh vào tài sản hữu hình vẫn không thay đổi.
Điều này là do đầu tư vào tài sản hữu hình là một phương pháp đầu tư phổ biến đối với "Nhật Bản, quốc gia sản xuất". Nhật Bản, quốc gia đã dành riêng để cải thiện tính hoàn thiện của sản phẩm bằng cách nâng cấp máy móc, được cho là có tỷ lệ đầu tư vào tài sản sáng tạo rất cao trong số các quốc gia phát triển.
Cần có góc nhìn về "tạo ra giá trị doanh nghiệp" trong bối cảnh hiện tại
Tuy nhiên, có một giới hạn trong việc tạo ra giá trị gia tăng thông qua đầu tư vào tài sản hữu hình. Giá trị gia tăng thu được thông qua sản xuất được đo bằng chênh lệch giữa giá trị của sản phẩm hoàn thiện và chi phí đầu vào, và đây là một lợi thế vượt trội đối với các quốc gia mới nổi có tỷ giá hối đoái và chi phí lao động thấp.
Mỹ huyển sang con đường tạo ra giá trị gia tăng thông qua đầu tư vào tài sản vô hình, tin rằng họ sẽ không thể cạnh tranh với các quốc gia mới nổi có tỷ giá hối đoái và chi phí lao động thấp hơn nếu chỉ dựa vào việc tạo ra giá trị gia tăng thông qua đầu tư vào tài sản hữu hình.
Trong khi Mỹ và các quốc gia khác tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, Nhật Bản lại đắm chìm vào "sản xuất", lĩnh vực có năng lực công nghệ vượt trội so với các nước đang phát triển. Người ta tin rằng "nếu bạn tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, chúng sẽ bán được", nhưng chính thị trường mới nổi đã tăng trưởng nhanh chóng sau những năm 1990.
Ở đó, thu nhập của người tiêu dùng không cao và các sản phẩm của Nhật Bản "rẻ so với chất lượng" đã trở nên quá mức. Nói cách khác, các nước nhiệt đới không cần máy điều hòa không khí kiểm soát nhiệt độ bằng cảm biến công nghệ cao.
Mặc dù có một số người chiến thắng, nhưng họ không thể nắm bắt hoàn toàn thị trường và bỏ lỡ cơ hội thoát khỏi mô hình kinh doanh theo phong cách quốc gia mới nổi. Kết quả là, Nhật Bản đã phải chịu suy thoái kinh tế và mức lương thấp cho công dân của mình, tình trạng này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay.
Trong cùng thời kỳ, Mỹ đã tạo ra "sự bất đối xứng thông tin" trong công nghệ số và thành công trong các nền tảng số và doanh nghiệp dữ liệu do GAFA đại diện, vì vậy sự khác biệt về phán đoán giữa các nhà quản lý Nhật Bản và Mỹ vào giữa những năm 1990 là rất lớn.
Trong thời gian này, có thể nói rằng những gì mọi người trên khắp thế giới muốn không còn là công nghệ tiên tiến nữa. Thay vì hiệu suất của một sản phẩm duy nhất liên tục được cải thiện, sự chú ý đã tập trung vào sự tiện lợi và thú vị mà công nghệ tiên tiến mang lại mà trước đây không có. Thật khó để đạt được giá trị gia tăng cao chỉ bằng cách xây dựng nhà máy và giới thiệu máy móc tiên tiến để cải thiện hiệu suất và chất lượng của chính sản phẩm.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng các ngành công nghiệp thâm dụng tài sản vô hình có năng suất cao và trọng tâm của tăng trưởng kinh tế đang chuyển từ tài sản hữu hình sang tài sản vô hình. Tài sản vô hình, được thể hiện bằng sở hữu trí tuệ, tạo sự khác biệt cho sản phẩm và dịch vụ, duy trì và củng cố sức mạnh định giá. Hoặc chúng có thể gây ra sự đổi mới mang tính đột phá. Đối với các công ty Nhật Bản, những công ty buộc phải củng cố sức mạnh thương hiệu để ứng phó với thị trường trong nước đang thu hẹp, việc đầu tư vào tài sản vô hình càng trở nên cấp thiết hơn.
Mặt khác, để ứng phó với thị trường đang thu hẹp, điều quan trọng là phải cải thiện hiệu quả sử dụng vốn cũng như củng cố sức mạnh thương hiệu. Có nhiều trường hợp không rõ ràng ngay lập tức đã đầu tư bao nhiêu vốn để tạo ra lợi nhuận, nhưng để theo đuổi "lợi nhuận cao và doanh số thấp", điều quan trọng là phải nhận thức đầy đủ về điểm này.
Gần đây, một chỉ số có tên là "ROIC" (Lợi nhuận trên vốn đầu tư) đã thu hút được sự chú ý. Đây là một chỉ số thuận tiện để đo lường mức độ hiệu quả của lợi nhuận so với việc huy động vốn từ các khoản đầu tư của cổ đông (vốn chủ sở hữu) và vay từ các tổ chức tài chính (nợ có lãi). Nếu tạo ra được nhiều lợi nhuận mặc dù số tiền huy động được ít, con số này sẽ cao. Nói cách khác, ROIC cho biết có bao nhiêu lợi nhuận (lợi nhuận) được tạo ra từ các quỹ đầu tư vào doanh nghiệp.
Trong thời đại mà thế hệ lao động đang giảm dần và cần phải thu hẹp chiến lược, các nguồn lực quản lý phải được tập trung. Thay vì quan điểm cho rằng giá trị doanh nghiệp được tạo ra do quản lý, như trường hợp của nhiều công ty Nhật Bản cho đến nay, thì cần phải có quan điểm "tạo ra giá trị doanh nghiệp" xem xét loại hình quản lý nào nên được thực hiện để tạo ra giá trị doanh nghiệp.
( Nguồn tiếng Nhật )
Có thể bạn sẽ thích