Người dân Nhật Bản đã trở nên nghèo hơn trong khoảng một thập kỷ qua do đồng yên yếu.
Tiền lương thực tế và tỷ giá hối đoái của đồng yên về cơ bản có mối liên hệ với nhau. Ngoại trừ thời kỳ Đại suy thoái, tiền lương thực tế có xu hướng tăng khi đồng yên tăng giá và giảm khi đồng yên mất giá.
Lý do người dân Nhật Bản trở nên nghèo hơn trong khoảng một thập kỷ qua là do họ đã trải qua hai xu hướng mất giá đồng yên lớn. Xu hướng đầu tiên là giai đoạn bốn năm từ 2012 đến 2015, và xu hướng thứ hai là giai đoạn bốn năm từ 2021 đến 2024.
Xu hướng mất giá đồng yên đầu tiên từ năm 2012 đến 2015 bắt đầu với kỳ vọng rằng Ngân hàng Trung Nhật Bản sẽ thay đổi chính sách tiền tệ. Trong giai đoạn này, đồng yên đã mất giá 65% so với đồng đô la, từ mức cao nhất là 76,11 yên vào tháng 2 năm 2012 xuống mức thấp nhất là 125,85 yên = 1 đô la vào tháng 6 năm 2015.
Kết quả là, tiền lương thực tế đã giảm 4,3% trong ba năm từ 2013 đến 2015. Con số này thậm chí còn lớn hơn mức giảm 4,2% được ghi nhận trong giai đoạn từ 2007 đến 2009, giai đoạn từ Cú sốc BNP Paribas đến Cú sốc Lehman.
Vào thời điểm đó, đồng yên yếu chắc hẳn đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân, nhưng các phương tiện truyền thông lớn chưa bao giờ đưa tin về sự việc này. Do đó, công chúng có thể khó thực sự cảm nhận được những khó khăn.
Mặc dù xu hướng đồng yên yếu đã kết thúc, nhưng sự sụt giảm tiền lương thực tế vẫn tiếp diễn.
Xu hướng đồng yên yếu thứ hai từ năm 2021 đến năm 2024 bắt đầu với tình trạng lạm phát nhanh chóng ở Mỹ do đại dịch Corona . Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái đô la/yên đã giảm 58%, từ mức cao nhất là 102,59 yên vào tháng 1 năm 2021 xuống mức thấp nhất là 161,95 yên = 1 đô la vào tháng 7 năm 2024.
Do đó, tiền lương thực tế dự kiến sẽ giảm 3,8% trong giai đoạn ba năm từ 2022 đến 2024.
Do tiền lương thực tế đã giảm đáng kể hai lần trong thập kỷ qua, không có gì ngạc nhiên khi cuộc sống của người dân ngày càng trở nên khó khăn hơn. Điều đáng lo ngại hơn nữa là sự sụt giảm tiền lương thực tế vẫn chưa dừng lại, mặc dù xu hướng đồng yên yếu đã kết thúc vào năm 2025.
Điều này rõ ràng trái ngược với kinh nghiệm trong quá khứ. Trên thực tế, tiền lương thực tế cho năm 2025 đã giảm mạnh, trung bình 1,4% tính đến tháng 6 (số liệu sơ bộ). Tốc độ giảm lương thực tế tích lũy kể từ năm 2021 dễ dàng vượt quá 5,0%.
Tại sao tiền lương thực tế tiếp tục giảm mạnh như vậy, mặc dù xu hướng đồng yên yếu đã kết thúc? Những yếu tố cấu trúc nào đứng sau điều này?
Các yếu tố cấu trúc bao gồm tình trạng thiếu hụt lao động nghiêm trọng và việc mở rộng đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp.
Trên thực tế, có hai yếu tố cấu trúc. Thứ nhất là sự gia tăng đáng kể chi phí do thiếu hụt lao động trầm trọng. Tình trạng thiếu hụt lao động kinh niên của Nhật Bản đang gây áp lực tăng lương không cần thiết.
Việc tăng lương quá mức mà không cải thiện năng suất dẫn đến lạm phát do chi phí đẩy lớn hơn dự kiến. Việc tăng lương được chuyển vào giá cả hàng hóa và dịch vụ, nhưng xu hướng trong vài năm qua là mức tăng giá cả lớn hơn đáng kể so với mức tăng lương.
Thứ hai là sự gia tăng nhanh chóng của "thu nhập đầu tư trực tiếp" (lợi nhuận mà các công ty kiếm được từ đầu tư ra nước ngoài). Tôi tin rằng sự gia tăng thu nhập đầu tư trực tiếp là yếu tố lớn hơn dẫn đến sự sụt giảm tiền lương thực tế so với sự gia tăng chi phí do thiếu hụt lao động.
Xu hướng mở rộng này có thể dễ dàng được hiểu bằng cách xem xét sự phân tích cán cân tài khoản vãng lai. Nhìn vào sự phân tích của ba năm qua, trong khi Nhật Bản đạt thặng dư đáng kể trong cán cân thu nhập chính (cán cân đầu tư), thì tất cả các cán cân khác, bao gồm cán cân thương mại, cán cân dịch vụ và cán cân thu nhập thứ cấp, đều bị thâm hụt.
Trên thực tế, thặng dư tài khoản vãng lai năm 2024 đạt mức kỷ lục 29,3 nghìn tỷ yên. Tuy nhiên, trong khi cán cân thu nhập chính đạt thặng dư 40,4 nghìn tỷ yên, thì ba cán cân còn lại cộng lại đã thâm hụt hơn 11 nghìn tỷ yên.
Hơn nữa, "thu nhập đầu tư trực tiếp" chiếm ba phần tư thặng dư thu nhập chính, 30,4 nghìn tỷ yên, đánh dấu năm thứ tư liên tiếp đạt mức cao kỷ lục. Con số này đã tăng gần gấp ba lần trong thập kỷ qua. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Nhật Bản đã trở nên phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài của các doanh nghiệp.
Đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp dẫn đến dòng chảy tài sản ra nước ngoài, làm trầm trọng thêm cuộc sống của người dân.
Các công ty Nhật Bản đang tích cực đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là tại Mỹ . Kể từ năm 2024, chúng ta đã chứng kiến một loạt các khoản đầu tư quy mô lớn, bao gồm việc Nippon Steel mua lại U.S. Steel (khoảng 2 nghìn tỷ yên) và Renesas Electronics mua lại Altium (khoảng 900 tỷ yên).
Việc mua đô la (bán yên) thông qua các khoản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài như vậy chỉ là một hình thức bán một chiều , không giống như đầu tư hay đầu cơ, không có giao dịch đối ứng. Theo ước tính của Bộ Tài chính, đầu tư trực tiếp trung bình hàng tháng vào năm 2024 đạt gần 3 nghìn tỷ yên.
Áp lực bán đồng yên này là rất lớn. Khi Mỹ cắt giảm lãi suất và Nhật Bản tăng lãi suất, đồng yên sẽ tăng giá đáng kể (đồng đô la sẽ yếu đi), nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty Nhật Bản đang ngăn cản sự tăng giá đáng kể của đồng yên.
Ngoài ra, phần lớn lợi nhuận từ đầu tư trực tiếp được tái đầu tư ra nước ngoài, với lợi nhuận rất hạn chế về nước. Điều này cho thấy rằng trong khi đồng yên yếu đang gây tổn hại đến cuộc sống của người dân, thì lợi nhuận của các công ty lại không được hoàn trả cho người dân.
Tuy nhiên, xét về góc độ kinh doanh, với dân số Nhật Bản đang giảm sút và thị trường chưa mở rộng, việc đầu tư lợi nhuận trong nước vào các quốc gia có dân số đang tăng là điều hoàn toàn đúng đắn. Trong mọi trường hợp, nếu xu hướng này không được ngăn chặn, tiền lương thực tế sẽ không bao giờ phục hồi bền vững.
Tình hình chính trị tồi tệ của Nhật Bản khiến vấn đề này trở nên bất khả thi.
Theo nghĩa đó, lời hứa "tăng tốc đầu tư vào Mỹ" của chính phủ trong các cuộc đàm phán thuế quan với Mỹ chẳng khác nào nói rằng: "Chúng tôi sẽ bảo vệ lợi nhuận của doanh nghiệp, nhưng chúng tôi sẽ không đảm bảo sinh kế của người dân." Điều này sẽ không cải thiện cuộc sống của người dân.
Chính sách kinh tế mà Nhật Bản cần hiện nay hoàn toàn không phải là "chi tiêu tài khóa mạnh tay" với tầm nhìn ngắn hạn. Đó là chính sách dựa trên các kế hoạch dài hạn, khuyến khích "mở rộng nguồn cung lao động" và "cải thiện năng suất".
Hơn nữa, Nhật Bản cần ngăn chặn sự gia tăng dòng vốn chảy ra khỏi các công ty Nhật Bản, đồng thời tạo ra một môi trường khuyến khích các công ty nước ngoài đầu tư vào Nhật Bản. Chúng ta phải biến Nhật Bản thành một thị trường hấp dẫn, không chỉ dành cho du lịch.
Liệu tình hình chính trị hiện tại của Nhật Bản có thực sự khả thi để thực hiện những chính sách này không?
Câu trả lời là hoàn toàn bất khả thi. Lao động nước ngoài là yếu tố thiết yếu để mở rộng nguồn cung lao động. Việc bãi bỏ quy định một cách táo bạo là yếu tố thiết yếu để cải thiện năng suất. Cải cách thuế một cách táo bạo cũng là yếu tố thiết yếu để tăng cường đầu tư trong nước của các công ty trong và ngoài nước.
Xét đến lập trường của mỗi đảng trong cuộc bầu cử Thượng viện gần đây và kết quả , khả năng thực hiện các chính sách cải thiện đời sống người dân về lâu dài gần như bằng không. Ngay cả khi đồng yên yếu kém lịch sử chấm dứt, tiền lương thực tế của người dân Nhật Bản cũng khó có thể phục hồi ổn định.
( Nguồn tiếng Nhật )
Tiền lương thực tế và tỷ giá hối đoái của đồng yên về cơ bản có mối liên hệ với nhau. Ngoại trừ thời kỳ Đại suy thoái, tiền lương thực tế có xu hướng tăng khi đồng yên tăng giá và giảm khi đồng yên mất giá.
Lý do người dân Nhật Bản trở nên nghèo hơn trong khoảng một thập kỷ qua là do họ đã trải qua hai xu hướng mất giá đồng yên lớn. Xu hướng đầu tiên là giai đoạn bốn năm từ 2012 đến 2015, và xu hướng thứ hai là giai đoạn bốn năm từ 2021 đến 2024.
Xu hướng mất giá đồng yên đầu tiên từ năm 2012 đến 2015 bắt đầu với kỳ vọng rằng Ngân hàng Trung Nhật Bản sẽ thay đổi chính sách tiền tệ. Trong giai đoạn này, đồng yên đã mất giá 65% so với đồng đô la, từ mức cao nhất là 76,11 yên vào tháng 2 năm 2012 xuống mức thấp nhất là 125,85 yên = 1 đô la vào tháng 6 năm 2015.
Kết quả là, tiền lương thực tế đã giảm 4,3% trong ba năm từ 2013 đến 2015. Con số này thậm chí còn lớn hơn mức giảm 4,2% được ghi nhận trong giai đoạn từ 2007 đến 2009, giai đoạn từ Cú sốc BNP Paribas đến Cú sốc Lehman.
Vào thời điểm đó, đồng yên yếu chắc hẳn đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân, nhưng các phương tiện truyền thông lớn chưa bao giờ đưa tin về sự việc này. Do đó, công chúng có thể khó thực sự cảm nhận được những khó khăn.
Mặc dù xu hướng đồng yên yếu đã kết thúc, nhưng sự sụt giảm tiền lương thực tế vẫn tiếp diễn.
Xu hướng đồng yên yếu thứ hai từ năm 2021 đến năm 2024 bắt đầu với tình trạng lạm phát nhanh chóng ở Mỹ do đại dịch Corona . Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái đô la/yên đã giảm 58%, từ mức cao nhất là 102,59 yên vào tháng 1 năm 2021 xuống mức thấp nhất là 161,95 yên = 1 đô la vào tháng 7 năm 2024.
Do đó, tiền lương thực tế dự kiến sẽ giảm 3,8% trong giai đoạn ba năm từ 2022 đến 2024.
Do tiền lương thực tế đã giảm đáng kể hai lần trong thập kỷ qua, không có gì ngạc nhiên khi cuộc sống của người dân ngày càng trở nên khó khăn hơn. Điều đáng lo ngại hơn nữa là sự sụt giảm tiền lương thực tế vẫn chưa dừng lại, mặc dù xu hướng đồng yên yếu đã kết thúc vào năm 2025.
Điều này rõ ràng trái ngược với kinh nghiệm trong quá khứ. Trên thực tế, tiền lương thực tế cho năm 2025 đã giảm mạnh, trung bình 1,4% tính đến tháng 6 (số liệu sơ bộ). Tốc độ giảm lương thực tế tích lũy kể từ năm 2021 dễ dàng vượt quá 5,0%.
Tại sao tiền lương thực tế tiếp tục giảm mạnh như vậy, mặc dù xu hướng đồng yên yếu đã kết thúc? Những yếu tố cấu trúc nào đứng sau điều này?
Các yếu tố cấu trúc bao gồm tình trạng thiếu hụt lao động nghiêm trọng và việc mở rộng đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp.
Trên thực tế, có hai yếu tố cấu trúc. Thứ nhất là sự gia tăng đáng kể chi phí do thiếu hụt lao động trầm trọng. Tình trạng thiếu hụt lao động kinh niên của Nhật Bản đang gây áp lực tăng lương không cần thiết.
Việc tăng lương quá mức mà không cải thiện năng suất dẫn đến lạm phát do chi phí đẩy lớn hơn dự kiến. Việc tăng lương được chuyển vào giá cả hàng hóa và dịch vụ, nhưng xu hướng trong vài năm qua là mức tăng giá cả lớn hơn đáng kể so với mức tăng lương.
Thứ hai là sự gia tăng nhanh chóng của "thu nhập đầu tư trực tiếp" (lợi nhuận mà các công ty kiếm được từ đầu tư ra nước ngoài). Tôi tin rằng sự gia tăng thu nhập đầu tư trực tiếp là yếu tố lớn hơn dẫn đến sự sụt giảm tiền lương thực tế so với sự gia tăng chi phí do thiếu hụt lao động.
Xu hướng mở rộng này có thể dễ dàng được hiểu bằng cách xem xét sự phân tích cán cân tài khoản vãng lai. Nhìn vào sự phân tích của ba năm qua, trong khi Nhật Bản đạt thặng dư đáng kể trong cán cân thu nhập chính (cán cân đầu tư), thì tất cả các cán cân khác, bao gồm cán cân thương mại, cán cân dịch vụ và cán cân thu nhập thứ cấp, đều bị thâm hụt.
Trên thực tế, thặng dư tài khoản vãng lai năm 2024 đạt mức kỷ lục 29,3 nghìn tỷ yên. Tuy nhiên, trong khi cán cân thu nhập chính đạt thặng dư 40,4 nghìn tỷ yên, thì ba cán cân còn lại cộng lại đã thâm hụt hơn 11 nghìn tỷ yên.
Hơn nữa, "thu nhập đầu tư trực tiếp" chiếm ba phần tư thặng dư thu nhập chính, 30,4 nghìn tỷ yên, đánh dấu năm thứ tư liên tiếp đạt mức cao kỷ lục. Con số này đã tăng gần gấp ba lần trong thập kỷ qua. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Nhật Bản đã trở nên phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài của các doanh nghiệp.
Đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp dẫn đến dòng chảy tài sản ra nước ngoài, làm trầm trọng thêm cuộc sống của người dân.
Các công ty Nhật Bản đang tích cực đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là tại Mỹ . Kể từ năm 2024, chúng ta đã chứng kiến một loạt các khoản đầu tư quy mô lớn, bao gồm việc Nippon Steel mua lại U.S. Steel (khoảng 2 nghìn tỷ yên) và Renesas Electronics mua lại Altium (khoảng 900 tỷ yên).
Việc mua đô la (bán yên) thông qua các khoản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài như vậy chỉ là một hình thức bán một chiều , không giống như đầu tư hay đầu cơ, không có giao dịch đối ứng. Theo ước tính của Bộ Tài chính, đầu tư trực tiếp trung bình hàng tháng vào năm 2024 đạt gần 3 nghìn tỷ yên.
Áp lực bán đồng yên này là rất lớn. Khi Mỹ cắt giảm lãi suất và Nhật Bản tăng lãi suất, đồng yên sẽ tăng giá đáng kể (đồng đô la sẽ yếu đi), nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty Nhật Bản đang ngăn cản sự tăng giá đáng kể của đồng yên.
Ngoài ra, phần lớn lợi nhuận từ đầu tư trực tiếp được tái đầu tư ra nước ngoài, với lợi nhuận rất hạn chế về nước. Điều này cho thấy rằng trong khi đồng yên yếu đang gây tổn hại đến cuộc sống của người dân, thì lợi nhuận của các công ty lại không được hoàn trả cho người dân.
Tuy nhiên, xét về góc độ kinh doanh, với dân số Nhật Bản đang giảm sút và thị trường chưa mở rộng, việc đầu tư lợi nhuận trong nước vào các quốc gia có dân số đang tăng là điều hoàn toàn đúng đắn. Trong mọi trường hợp, nếu xu hướng này không được ngăn chặn, tiền lương thực tế sẽ không bao giờ phục hồi bền vững.
Tình hình chính trị tồi tệ của Nhật Bản khiến vấn đề này trở nên bất khả thi.
Theo nghĩa đó, lời hứa "tăng tốc đầu tư vào Mỹ" của chính phủ trong các cuộc đàm phán thuế quan với Mỹ chẳng khác nào nói rằng: "Chúng tôi sẽ bảo vệ lợi nhuận của doanh nghiệp, nhưng chúng tôi sẽ không đảm bảo sinh kế của người dân." Điều này sẽ không cải thiện cuộc sống của người dân.
Chính sách kinh tế mà Nhật Bản cần hiện nay hoàn toàn không phải là "chi tiêu tài khóa mạnh tay" với tầm nhìn ngắn hạn. Đó là chính sách dựa trên các kế hoạch dài hạn, khuyến khích "mở rộng nguồn cung lao động" và "cải thiện năng suất".
Hơn nữa, Nhật Bản cần ngăn chặn sự gia tăng dòng vốn chảy ra khỏi các công ty Nhật Bản, đồng thời tạo ra một môi trường khuyến khích các công ty nước ngoài đầu tư vào Nhật Bản. Chúng ta phải biến Nhật Bản thành một thị trường hấp dẫn, không chỉ dành cho du lịch.
Liệu tình hình chính trị hiện tại của Nhật Bản có thực sự khả thi để thực hiện những chính sách này không?
Câu trả lời là hoàn toàn bất khả thi. Lao động nước ngoài là yếu tố thiết yếu để mở rộng nguồn cung lao động. Việc bãi bỏ quy định một cách táo bạo là yếu tố thiết yếu để cải thiện năng suất. Cải cách thuế một cách táo bạo cũng là yếu tố thiết yếu để tăng cường đầu tư trong nước của các công ty trong và ngoài nước.
Xét đến lập trường của mỗi đảng trong cuộc bầu cử Thượng viện gần đây và kết quả , khả năng thực hiện các chính sách cải thiện đời sống người dân về lâu dài gần như bằng không. Ngay cả khi đồng yên yếu kém lịch sử chấm dứt, tiền lương thực tế của người dân Nhật Bản cũng khó có thể phục hồi ổn định.
( Nguồn tiếng Nhật )
Có thể bạn sẽ thích