Xã hội Tìm hiểu thực trạng thiết bị thông tin liên lạc mà học sinh tiểu học có thể tự do sử dụng ở nhà (bản công bố năm 2020)

Xã hội Tìm hiểu thực trạng thiết bị thông tin liên lạc mà học sinh tiểu học có thể tự do sử dụng ở nhà (bản công bố năm 2020)

title-1608071394004.jpeg


Sự phổ cập của Internet đã giúp chúng ta có thể dễ dàng giao tiếp với những người không có ở trước mặt, chơi trò chơi và tận dụng rộng rãi thông tin bằng cách sử dụng các chức năng tích lũy và tìm kiếm. Và tình hình hiện nay là đến trẻ em cũng có thể dễ dàng sử dụng sự tiện lợi này . Lần này, dựa trên kết quả của cuộc "Khảo sát về cuộc sống hàng ngày và việc học tập của học sinh tiểu học" do Viện nghiên cứu giáo dục Gakken công bố xác nhận thực trạng sử dụng internet của trẻ em thông qua thực trạng của các thiết bị liên lạc mà học sinh tiểu học có thể tự do sử dụng tại nhà.

Khảo sát đã đưa ra câu hỏi nhiều đáp án cho học sinh tiểu học về các thiết bị liên lạc có thể sử dụng tự do ở nhà (trong trường hợp này, nó có nghĩa là những thiết bị có thể kết nối Internet). "(Chia sẻ)" có nghĩa là chia sẻ với gia đình và "(chuyên dụng)" có nghĩa là chỉ dành cho học sinh tiểu học. Các giả định khác như tivi có thể sử dụng Internet, tất cả đều được bao gồm trong mục "Khác". Ngoài ra, có khả năng một số loại hạn chế sử dụng được đặt bởi phụ huynh trong mục tùy chọn "(chuyên dụng )" của mỗi loại thiết bị đầu cuối. Việc sử dụng các thiết bị bên ngoài nhà như trường học và thư viện không thuộc đối tượng..

image-1608071549781.png


28,4% học sinh tiểu học có máy chơi game chuyên dụng (di động hoặc cố định). Xem xét từ các kết quả khảo sát khác và cách sử dụng , phần lớn máy chơi game (dùng chung) là loại cố định và máy trò chơi (chuyên dụng) là di động. Điện thoại thông minh (chia sẻ) cho thấy giá trị cao hơn vì chúng có nhiều chức năng hơn và có giá cao hơn. Nếu không có người trả lời giống nhau cho (chia sẻ) và (dành riêng), khoảng 30% học sinh tiểu học đang sử dụng điện thoại thông minh.

Chỉ 2,7% máy tính cá nhân là (chuyên dụng), nhưng 25,4% là (dùng chung). Có lẽ là sử dụng máy tính cá nhân mà bố mẹ thông thường đang dùng, hoặc sử dụng thiết bị đầu cuối cũ của bố mẹ không dùng nữa.Giá trị của (dùng chung) cho thiết bị đầu cuối máy tính bảng không quá khác biệt so với máy tính cá nhân, nhưng giá trị dành cho (chuyên dụng) lại cao, đạt 11,0%. Có phải vì nó có thể được sử dụng như một phần mở rộng của điện thoại thông minh với chi phí thấp? Ngoài ra, 22,8% số người được hỏi trả lời là không, nói cách khác, hơn 20% học sinh tiểu học không có thiết bị liên lạc = thiết bị kết nối Internet có thể sử dụng tự do tại nhà.

Biểu đồ sau đây cho thấy máy tính cá nhân, thiết bị máy tính bảng và điện thoại thông minh được phân loại theo giới.

image-1608071518141.png


Giá trị của máy tính cá nhân đối với trẻ em trai cao hơn trẻ em gái và thiết bị máy tính bảng cũng vậy. Tuy nhiên, đối với điện thoại thông minh, (dùng chung) cao hơn đối với trẻ em trai, trong khi (chuyên dụng ) cao hơn đối với trẻ em gái, cho thấy giá trị 14,5%. Liệu có phải các em gái có mong muốn mạnh mẽ hơn về cuộc sống riêng tư mà không muốn cha mẹ của nhìn thấy ?

Nhìn vào từng cấp lớp, giá trị của cả máy tính cá nhân (dùng chung) và (chuyên dụng) đều tăng lên khi cấp lớp tăng lên. Tuy nhiên, (chuyên dụng) chỉ là 5,5% cho học sinh lớp năm và 5,0% cho học sinh lớp sáu. Xét rằng (dùng chung) là 36,5% học sinh lớp 6 tiểu học, đó có phải là phong cách sử dụng máy tính trong khi được cha mẹ dạy cách sử dụng không? Theo cấp lớp, thiết bị máy tính bảng hiển thị giá trị cao hơn máy tính cá nhân từ lớp 1 đến lớp 4. Ngoài ra, theo như (chuyên dụng) được đề cập, ngay cả giá trị của học sinh lớp 5-6 cũng có giá trị cao hơn máy tính cá nhân. Liệu có phải vì rẻ và dễ sử dụng nên được nhận từ các bậc phụ huynh, hay vì dễ dàng tiếp nhận một phương pháp thao tác tương tự như điện thoại thông minh ?

Điện thoại thông minh thường rẻ hơn máy tính cá nhân và thiết bị máy tính bảng. Tính cơ động cao = dễ thoát khỏi sự giám sát của cha mẹ và chi phí cao , hơn nữa khả năng bị mang ra ngoài cao nếu là món đồ dành cho trẻ em là nguyên nhân ? Tuy nhiên, 17,0% học sinh lớp năm và 21,0% học sinh lớp sáu đã có điện thoại thông minh của riêng mình, và có thực trạng rằng các em có thể sử dụng chúng tự do ở nhà.

( Tham khảo )
 

Đính kèm

  • 20200610-00181489-roupeiro-000-4-view.jpg
    20200610-00181489-roupeiro-000-4-view.jpg
    104.9 KB · Lượt xem: 734

Bài viết liên quan

ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
Your content here
Top