● Dân số thế giới tiếp tục tăng nhưng dân số Nhật Bản tiếp tục già đi và tỷ lệ sinh giảm.
Dự đoán dân số được cho là dự đoán tương lai chính xác nhất. Số người già trong 50 năm có thể được xác định bằng cách tính số người trẻ hiện nay (trừ khi có dịch bệnh nghiêm trọng, con số sẽ không giảm nhiều như dự đoán). Số người trưởng thành trong 20 năm tới có thể được tính từ số trẻ sơ sinh hiện tại và tương đối dễ dàng để dự đoán số trẻ sơ sinh (có thể dự đoán từ dân số ở độ tuổi phù hợp với cha mẹ và xu hướng tỷ lệ sinh gần đây) .
Theo những dự báo dân số này, rõ ràng là dân số Nhật Bản sẽ bắt đầu giảm, tình trạng già hóa và tỷ lệ sinh giảm sẽ tiếp tục gia tăng, nhưng nhìn từ góc độ toàn cầu, dân số sẽ tiếp tục tăng. Điều này là do nhiều nước mới phát triển vẫn có tỷ lệ sinh cao. Dân số thế giới sẽ là 8 tỷ người vào năm 2022 và dự đoán hiện tại là sẽ tăng lên 10 tỷ người vào năm 2058. Người ta dự đoán rằng phần lớn sự gia tăng dân số sẽ đến từ châu Phi cận Sahara (các quốc gia châu Phi nằm ở phía nam sa mạc Sahara) .
Sự gia tăng dân số hơn nữa ở các nước mới nổi sẽ gây ra tình trạng thiếu lương thực. Ngoài ra, các nước phát triển sẽ có tình trạng dân số già giống như ở Nhật Bản, điều này sẽ gây ra những vấn đề như gánh nặng chi phí y tế và thiếu nhân lực chăm sóc điều dưỡng. Nếu tỷ lệ sinh giảm xuống dưới 2,1 ở các nước phát triển, dân số sẽ giảm. Nếu dân số giảm thì sẽ thiếu lao động và số người nộp thuế cũng sẽ giảm.
Dân số tăng đã khó nhưng dân số giảm cũng khó. Hơn nữa, chắc chắn rằng nhiều quốc gia trên thế giới sẽ phải đối mặt với vấn đề dân số.
● Dân số ngày càng tăng ở các nước mới nổi sẽ di chuyển để tìm kiếm thu nhập cao hơn.
Vấn đề dân số không chỉ là vấn đề về số lượng và cơ cấu tuổi. Sự di chuyển dân số từ các nước mới nổi đến các nước phát triển đang diễn ra làm nảy sinh các vấn đề về nhập cư. Nhập cư sẽ tiếp tục xảy ra chừng nào sự chênh lệch thu nhập vẫn tồn tại giữa các nước phát triển và mới nổi.
Sự gia tăng nhập cư đang gây ra xung đột văn hóa và các vấn đề về chủ nghĩa dân tộc ở các nước phát triển, đặc biệt là ở Châu Âu và Mỹ. Ở Mỹ, khi ông Trump còn là tổng thống, ông đã cam kết “xây một bức tường ở biên giới với Mexico”, điều này đã nhận được sự ủng hộ từ những người cho rằng quá nhiều người nhập cư sẽ dẫn đến ít việc làm hơn cho người da trắng. Ở châu Âu, những người nhập cư đến đây với mục đích kiếm tiền buộc phải sống trong một môi trường khắc nghiệt hơn họ tưởng tượng, và sự thất vọng của họ ngày càng tăng, dẫn đến các cuộc tấn công khủng bố và các sự cố khác.
Để có thu nhập cao hơn, người dân từ các nước mới nổi cố gắng di cư ra nước ngoài hoặc đến các thành phố lớn. Mặc dù vậy, vấn đề bất bình đẳng thu nhập vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia và người ta cho rằng một số ít người giàu sẽ tiếp tục tích lũy khối tài sản lớn.
Ở các nước mới nổi, sự chênh lệch ngày càng gia tăng khi những người nắm giữ quyền lợi được đảm bảo với tư cách là quyền lực cầm quyền truyền thống và những người thành công trong những năm đầu thông qua đầu tư từ nước ngoài thậm chí còn trở nên thành công và giàu có hơn về mặt kinh tế. Có lo ngại rằng ở các nước phát triển, đặc biệt là ở Mỹ, các tỷ phú khởi nghiệp kinh doanh riêng và rất thành công lại càng thành công hơn về mặt tài chính và hiện có tài sản trị giá hàng nghìn tỷ yên.
● Phải chăng sự bất bình đẳng ở Nhật Bản ngày càng gia tăng do sự gia tăng số lượng lao động không thường xuyên?
Thuật ngữ "vấn đề chênh lệch" cũng thường được sử dụng ở Nhật Bản. Sau khi bong bóng vỡ ở Nhật Bản vào năm 1991, số lượng nhân viên mới tốt nghiệp được tuyển dụng giảm xuống và những người không thể trở thành nhân viên chính thức bắt đầu làm nhân viên tạm thời. Các công ty cắt giảm số lượng nhân viên toàn thời gian có thể thấy mình không thể giải quyết được công việc nhưng họ sử dụng lao động tạm thời vì rẻ hơn so với thuê nhân viên toàn thời gian. Công nhân tạm thời ban đầu là một cách để bù đắp cho tình trạng thiếu lao động ngắn hạn, nhưng vì chúng có lợi thế là chi phí thấp nên các công ty đang tiếp tục giảm số lượng tuyển dụng nhân viên mới tốt nghiệp và tuyển dụng công nhân tạm thời làm việc lâu dài. Số lượng công ty cũng tăng lên.
Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu được gọi là Cú sốc Lehman năm 2008, hiệu quả kinh doanh sa sút và khối lượng công việc giảm sút, dẫn đến nhiều công ty phải ngừng tuyển dụng lao động tạm thời. Đây là một hiện tượng được gọi là “cắt công văn”. Từ khoảng thời gian này, thuật ngữ "vấn đề chênh lệch" bắt đầu được sử dụng thường xuyên.
Vì những hoàn cảnh này, năm 2008, người ta tập trung chú ý vào sự chênh lệch giữa nhân viên chính thức và nhân viên tạm thời. Tuy nhiên, đằng sau điều này là vấn đề chênh lệch thế hệ giữa “thế hệ có thể trở thành nhân viên toàn thời gian trước khi bong bóng vỡ” và “thế hệ không thể trở thành nhân viên toàn thời gian vì đã sau khi bong bóng vỡ.”
Ở các công ty lớn của Nhật Bản áp dụng chế độ làm việc suốt đời, một khi bạn trở thành nhân viên chính thức, bạn sẽ hiếm khi bị sa thải. Mức lương được xác định theo thâm niên nên những nhân viên trung niên trở lên gia nhập công ty trước thời kỳ bong bóng kinh tế sẽ nhận được mức lương cao hơn. Về phía doanh nghiệp, để tồn tại trong cuộc cạnh tranh giá rẻ, họ phải hạ chi phí nên không còn cách nào khác là phải thực hiện giải pháp “duy trì việc làm suốt đời nhưng giảm tốc độ tăng lương”.
Vì lý do này, rõ ràng là không chỉ mức lương của nhân viên tạm thời thấp mà mức lương của nhân viên thường xuyên cũng thấp và lương của những nhân viên gia nhập công ty trước thời kỳ bong bóng cũng thấp hơn so với lương của những người trung niên và những người lao động lớn tuổi trước đây.
● Sự thật đằng sau vấn đề bất bình đẳng ở Nhật Bản là “mọi người đều trở nên nghèo”
Kết quả là khoảng cách vẫn chưa được nới rộng, và ngay cả khi nhìn vào hệ số Gini, thước đo mức độ chênh lệch thu nhập, Nhật Bản vẫn được xếp vào nhóm ở mức thấp. Có rất ít người như triệu phú Mỹ ở Nhật Bản, điều này giải thích tại sao sự chênh lệch là nhỏ.
Nói cách khác, vấn đề thu nhập của Nhật Bản thực chất không phải là “bất bình đẳng thu nhập” mà là “thu nhập thấp” mới nghiêm trọng hơn. Vấn đề là mức lương trung bình không tăng. Tiền lương hầu như không tăng, không chỉ đối với lao động thời vụ mà cả lao động chính thức, không chỉ đối với lao động trẻ mà cả lao động trung niên và cao tuổi.
Vậy liệu tình trạng “thu nhập thấp” này có còn tiếp diễn trong tương lai ? Trên thực tế, vấn đề thành phần nhân khẩu học ở đây đang diễn ra theo chiều hướng tích cực. Tại nơi làm việc của các công ty lớn, những nhân viên gia nhập công ty trước thời kỳ bong bóng kinh tế sẽ lần lượt tiếp tục nghỉ hưu. Các công ty có thể giảm chi phí lao động bằng cách thay thế những nhân viên được trả lương cao bằng những nhân viên trẻ hơn. Do khối lượng công việc sẽ không giảm đáng kể nên công ty sẽ cố gắng bù đắp lượng nhân sự sụt giảm do người về hưu bằng sinh viên mới ra trường.
Tuy nhiên, số lượng nhân viên mới tốt nghiệp mỗi cấp lớp hiện nay chưa bằng một nửa so với thế hệ bùng nổ dân số ( baby boomer )nên khó tuyển đủ người để bù đắp cho sự sụt giảm. Các nhân viên trẻ ngày nay tích cực hơn trong việc thay đổi công việc nên có nguy cơ họ sẽ chuyển từ công ty có mức lương thấp hơn sang công ty có mức lương cao hơn. Vì vậy, tình hình từ nay trở đi sẽ là “thị trường của người bán” (người lao động sẽ có thế mạnh) , và mức lương sẽ tăng.
( Nguồn tiếng Nhật )
Dự đoán dân số được cho là dự đoán tương lai chính xác nhất. Số người già trong 50 năm có thể được xác định bằng cách tính số người trẻ hiện nay (trừ khi có dịch bệnh nghiêm trọng, con số sẽ không giảm nhiều như dự đoán). Số người trưởng thành trong 20 năm tới có thể được tính từ số trẻ sơ sinh hiện tại và tương đối dễ dàng để dự đoán số trẻ sơ sinh (có thể dự đoán từ dân số ở độ tuổi phù hợp với cha mẹ và xu hướng tỷ lệ sinh gần đây) .
Theo những dự báo dân số này, rõ ràng là dân số Nhật Bản sẽ bắt đầu giảm, tình trạng già hóa và tỷ lệ sinh giảm sẽ tiếp tục gia tăng, nhưng nhìn từ góc độ toàn cầu, dân số sẽ tiếp tục tăng. Điều này là do nhiều nước mới phát triển vẫn có tỷ lệ sinh cao. Dân số thế giới sẽ là 8 tỷ người vào năm 2022 và dự đoán hiện tại là sẽ tăng lên 10 tỷ người vào năm 2058. Người ta dự đoán rằng phần lớn sự gia tăng dân số sẽ đến từ châu Phi cận Sahara (các quốc gia châu Phi nằm ở phía nam sa mạc Sahara) .
Sự gia tăng dân số hơn nữa ở các nước mới nổi sẽ gây ra tình trạng thiếu lương thực. Ngoài ra, các nước phát triển sẽ có tình trạng dân số già giống như ở Nhật Bản, điều này sẽ gây ra những vấn đề như gánh nặng chi phí y tế và thiếu nhân lực chăm sóc điều dưỡng. Nếu tỷ lệ sinh giảm xuống dưới 2,1 ở các nước phát triển, dân số sẽ giảm. Nếu dân số giảm thì sẽ thiếu lao động và số người nộp thuế cũng sẽ giảm.
Dân số tăng đã khó nhưng dân số giảm cũng khó. Hơn nữa, chắc chắn rằng nhiều quốc gia trên thế giới sẽ phải đối mặt với vấn đề dân số.
● Dân số ngày càng tăng ở các nước mới nổi sẽ di chuyển để tìm kiếm thu nhập cao hơn.
Vấn đề dân số không chỉ là vấn đề về số lượng và cơ cấu tuổi. Sự di chuyển dân số từ các nước mới nổi đến các nước phát triển đang diễn ra làm nảy sinh các vấn đề về nhập cư. Nhập cư sẽ tiếp tục xảy ra chừng nào sự chênh lệch thu nhập vẫn tồn tại giữa các nước phát triển và mới nổi.
Sự gia tăng nhập cư đang gây ra xung đột văn hóa và các vấn đề về chủ nghĩa dân tộc ở các nước phát triển, đặc biệt là ở Châu Âu và Mỹ. Ở Mỹ, khi ông Trump còn là tổng thống, ông đã cam kết “xây một bức tường ở biên giới với Mexico”, điều này đã nhận được sự ủng hộ từ những người cho rằng quá nhiều người nhập cư sẽ dẫn đến ít việc làm hơn cho người da trắng. Ở châu Âu, những người nhập cư đến đây với mục đích kiếm tiền buộc phải sống trong một môi trường khắc nghiệt hơn họ tưởng tượng, và sự thất vọng của họ ngày càng tăng, dẫn đến các cuộc tấn công khủng bố và các sự cố khác.
Để có thu nhập cao hơn, người dân từ các nước mới nổi cố gắng di cư ra nước ngoài hoặc đến các thành phố lớn. Mặc dù vậy, vấn đề bất bình đẳng thu nhập vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia và người ta cho rằng một số ít người giàu sẽ tiếp tục tích lũy khối tài sản lớn.
Ở các nước mới nổi, sự chênh lệch ngày càng gia tăng khi những người nắm giữ quyền lợi được đảm bảo với tư cách là quyền lực cầm quyền truyền thống và những người thành công trong những năm đầu thông qua đầu tư từ nước ngoài thậm chí còn trở nên thành công và giàu có hơn về mặt kinh tế. Có lo ngại rằng ở các nước phát triển, đặc biệt là ở Mỹ, các tỷ phú khởi nghiệp kinh doanh riêng và rất thành công lại càng thành công hơn về mặt tài chính và hiện có tài sản trị giá hàng nghìn tỷ yên.
● Phải chăng sự bất bình đẳng ở Nhật Bản ngày càng gia tăng do sự gia tăng số lượng lao động không thường xuyên?
Thuật ngữ "vấn đề chênh lệch" cũng thường được sử dụng ở Nhật Bản. Sau khi bong bóng vỡ ở Nhật Bản vào năm 1991, số lượng nhân viên mới tốt nghiệp được tuyển dụng giảm xuống và những người không thể trở thành nhân viên chính thức bắt đầu làm nhân viên tạm thời. Các công ty cắt giảm số lượng nhân viên toàn thời gian có thể thấy mình không thể giải quyết được công việc nhưng họ sử dụng lao động tạm thời vì rẻ hơn so với thuê nhân viên toàn thời gian. Công nhân tạm thời ban đầu là một cách để bù đắp cho tình trạng thiếu lao động ngắn hạn, nhưng vì chúng có lợi thế là chi phí thấp nên các công ty đang tiếp tục giảm số lượng tuyển dụng nhân viên mới tốt nghiệp và tuyển dụng công nhân tạm thời làm việc lâu dài. Số lượng công ty cũng tăng lên.
Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu được gọi là Cú sốc Lehman năm 2008, hiệu quả kinh doanh sa sút và khối lượng công việc giảm sút, dẫn đến nhiều công ty phải ngừng tuyển dụng lao động tạm thời. Đây là một hiện tượng được gọi là “cắt công văn”. Từ khoảng thời gian này, thuật ngữ "vấn đề chênh lệch" bắt đầu được sử dụng thường xuyên.
Vì những hoàn cảnh này, năm 2008, người ta tập trung chú ý vào sự chênh lệch giữa nhân viên chính thức và nhân viên tạm thời. Tuy nhiên, đằng sau điều này là vấn đề chênh lệch thế hệ giữa “thế hệ có thể trở thành nhân viên toàn thời gian trước khi bong bóng vỡ” và “thế hệ không thể trở thành nhân viên toàn thời gian vì đã sau khi bong bóng vỡ.”
Ở các công ty lớn của Nhật Bản áp dụng chế độ làm việc suốt đời, một khi bạn trở thành nhân viên chính thức, bạn sẽ hiếm khi bị sa thải. Mức lương được xác định theo thâm niên nên những nhân viên trung niên trở lên gia nhập công ty trước thời kỳ bong bóng kinh tế sẽ nhận được mức lương cao hơn. Về phía doanh nghiệp, để tồn tại trong cuộc cạnh tranh giá rẻ, họ phải hạ chi phí nên không còn cách nào khác là phải thực hiện giải pháp “duy trì việc làm suốt đời nhưng giảm tốc độ tăng lương”.
Vì lý do này, rõ ràng là không chỉ mức lương của nhân viên tạm thời thấp mà mức lương của nhân viên thường xuyên cũng thấp và lương của những nhân viên gia nhập công ty trước thời kỳ bong bóng cũng thấp hơn so với lương của những người trung niên và những người lao động lớn tuổi trước đây.
● Sự thật đằng sau vấn đề bất bình đẳng ở Nhật Bản là “mọi người đều trở nên nghèo”
Kết quả là khoảng cách vẫn chưa được nới rộng, và ngay cả khi nhìn vào hệ số Gini, thước đo mức độ chênh lệch thu nhập, Nhật Bản vẫn được xếp vào nhóm ở mức thấp. Có rất ít người như triệu phú Mỹ ở Nhật Bản, điều này giải thích tại sao sự chênh lệch là nhỏ.
Nói cách khác, vấn đề thu nhập của Nhật Bản thực chất không phải là “bất bình đẳng thu nhập” mà là “thu nhập thấp” mới nghiêm trọng hơn. Vấn đề là mức lương trung bình không tăng. Tiền lương hầu như không tăng, không chỉ đối với lao động thời vụ mà cả lao động chính thức, không chỉ đối với lao động trẻ mà cả lao động trung niên và cao tuổi.
Vậy liệu tình trạng “thu nhập thấp” này có còn tiếp diễn trong tương lai ? Trên thực tế, vấn đề thành phần nhân khẩu học ở đây đang diễn ra theo chiều hướng tích cực. Tại nơi làm việc của các công ty lớn, những nhân viên gia nhập công ty trước thời kỳ bong bóng kinh tế sẽ lần lượt tiếp tục nghỉ hưu. Các công ty có thể giảm chi phí lao động bằng cách thay thế những nhân viên được trả lương cao bằng những nhân viên trẻ hơn. Do khối lượng công việc sẽ không giảm đáng kể nên công ty sẽ cố gắng bù đắp lượng nhân sự sụt giảm do người về hưu bằng sinh viên mới ra trường.
Tuy nhiên, số lượng nhân viên mới tốt nghiệp mỗi cấp lớp hiện nay chưa bằng một nửa so với thế hệ bùng nổ dân số ( baby boomer )nên khó tuyển đủ người để bù đắp cho sự sụt giảm. Các nhân viên trẻ ngày nay tích cực hơn trong việc thay đổi công việc nên có nguy cơ họ sẽ chuyển từ công ty có mức lương thấp hơn sang công ty có mức lương cao hơn. Vì vậy, tình hình từ nay trở đi sẽ là “thị trường của người bán” (người lao động sẽ có thế mạnh) , và mức lương sẽ tăng.
( Nguồn tiếng Nhật )
Có thể bạn sẽ thích