Chuyện về những nàng geisha

Chuyện về những nàng geisha

Nói đến những sắc thái văn hóa truyền thống của dân tộc Nhật, chúng ta liên tưởng ngay đến các hiệp sĩ (samurai), phong cách trà đạo và... các nàng geisha - một thành phần xã hội đã tồn tại trên 250 năm, nay vẫn còn ẩn chứa những nét đẹp sau lớp áo kimono đã qua một thời vàng son, hư ảo...

Gesisha hát múa để kiếm sống... [/SIZE



sha3112.jpg



Geisha hay nghệ giả, theo ngôn ngữ Nhật, là những người sống bằng nghệ thuật. Họ không phải là vũ nữ, càng không phải là gái làng chơi như có người nhầm lẫn. Họ có nhiều kỹ năng khác nhau như đàn hát, múa, kể chuyện, pha trà..., được đào luyện kỹ và sống trong một khuôn khổ nhất định. Hiểu theo nghĩa chặt chẽ thì nghề geisha xuất hiện từ đầu thế kỷ 17, nghĩa là cách nay hơn 250 năm... Hai “tiền thân” của geisha là Saburuko, xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 7 và Shirabyoshi, tồn tại vào những năm 1185-1333 thuộc Công nguyên.

Saburuko (người phục vụ) là hệ quả những đổi thay sâu sắc trong xã hội Nhật vào cuối thế kỷ thứ 7. Hoàn cảnh xã hội đã đẩy nhiều phụ nữa khỏi đời sống gia đình và kiếm sống trên đường phố. Phần lớn trong số họ xuất thân từ những tầng lớp thấp kém, nhưng cũng có những người có tài năng và được hưởng thụ một nền giáo dục hoàn hảo. Vào thời này, các Saburuko có tài múa, hát tuồng được mời đến phục vụ cho giai tầng quý tộc trong xã hội.

Shirabyoshi lúc đầu chỉ là tên của một vũ khúc. Về sau, nó được đặt cho các cô gái thường biểu diễn vũ khúc này để kiếm sống. Khi cấu trúc xã hội Nhật bị phá vỡ, sự sa sút của nhiều gia đình quý tộc khiến cho nhiều cô gái biến thành Shirabyoshi để có thể tồn tại. Vốn có một nền học vấn cao, họ nổi tiếng với tài múa hát và làm thơ.

Nhiều người nhận được sự nâng đỡ của những gia đình thuộc tầng lớp thượng lưu, trong đó có hai dòng họ quý tộc nổi tiếng là Fujiwara và Taira. Trong quá trình tồn tại như một thành phần xã hội được chú ý nhiều, họ còn biết hát các bản ballad chuyên soạn dựa vào kinh Phật du nhập từ Trung Quốc.

Cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, các khu vui chơi giải trí ra đời ở Nhật, theo mô hình các khu giải trí do nhà Minh thành lập ở Trung Quốc. Sang thế kỷ 18, sự phồn thịnh và tính văn hóa cao ở những nơi này đã làm phát sinh một thành phần mới gọi là “Geiko”. Họ xuất thân từ Osaka và Kyoto, lúc đầu là nam giới, nhưng về sau, nữ giới hầu như chiếm lĩnh “trận địa” và trở thành những geisha đầu tiên trong lịch sử Nhật. Sự xuất hiện của những cô gái này gắn liền với sự ra đời của cây đàn shamisen, tên ban đầu là jabisen

Từ giữa thế kỷ 18, geisha là hiện thân của một kỹ nghệ vui chơi trong xã hội Nhật, mục đích chính là làm vui giới đàn ông thừa tiền lắm của. Họ không phải là gái làng chơi, nhưng trong đời sống cá nhân, họ có thể có mối quan hệ lâu dài với một người đàn ông nhất định nào đó về các mặt nghệ thuật, kinh tế và tính dục.




gei3112.jpg

Nếu lấy chồng, Geisha phải về quê...

Về sau, với sự phát triển của xã hội, các geisha có một tầm hoạt động rộng rãi hơn. Họ phục vụ trong các trà ốc (O-chaya: quán trà) hay các nhà hàng sau khi đã trải qua những khóa huấn luyện kỹ năng như múa cổ điển, ca hát, đàn shamisen, cắm hoa, nghệ thuật mặc kimono, trà đạo, thư pháp, chuốc rượu... Một geisha thành công phải là người biết phô diễn vẻ đẹp, sự duyên dáng, tài năng nghệ thuật, sự tinh tế trong ứng xử với mọi người.

Để được trở thành geisha, đối tượng phải là con của một geisha hoặc được một trà ốc nhận vào làm. Trong quá khứ nhiều cô gái đẹp, còn nhỏ tuổi, bị mồ côi hay sống trong những gia đình quá nghèo túng, thường được thân nhân mang bán cho các trà ốc. Các cơ sở này phải đầu tư một khoản tiền lớn để huấn luyện họ và cho họ mặc những bộ kimono màu sắc sặc sỡ. Nhiều khi đích thân người chủ quán (okamisan) huấn luyện họ. Khi đạt đến một trình độ nhất định, những cô gái trên được gọi là maiko, được xem như những geisha tập sự. Họ có nhiệm vụ tháp tùng các geisha để tiếp tục học việc và tập làm quen với nghề.

Thông thường khi đến tuổi 20, một maiko sẽ tự quyết định trở thành geisha hay không. Nếu lấy chồng, họ sẽ phải bỏ nghề.

Tuy không có luật lệ nào quy định, nhưng trong quan hệ với người đàn ông là khách thường xuyên của một nhà hàng hay trà ốc, vị trí của geisha được phân định rõ rệt với vai trò người vợ trong gia đình người khách ấy. Trong nền văn hóa Nhật, các geisha không hề là mối đe dọa đối với đời sống gia đình của bất cứ người khách nào. Điều này cũng dễ hiểu, vì mối quan hệ giữa họ với nhau không dựa vào tình cảm yêu đương. Các bà vợ thường biết rõ những cô geisha nào phục vụ chồng mình tại các nơi công cộng, đôi lúc, họ chạm mặt nhau trên đường đi.

Ngoài những việc trên, các geisha có thể cố vấn cho khách về những vấn đề trong lãnh vực thương mại mà ông ta đang tham gia. Họ biểu diễn trong tiệc cưới của con gái các khách hàng và tham dự lễ tang nếu chẳng may khách hàng của họ qua đời...

Người Lao Động – Theo KTNN

 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

Bài viết liên quan

Thumbnail bài viết: Ngay cả khi thu nhập hàng năm tăng, "tiền lương thực lĩnh" vẫn không tăng. So sánh "Thu nhập Hàng năm" và "Tỷ lệ Gánh nặng Quốc gia" trong 10 năm qua.
Ngay cả khi thu nhập hàng năm tăng, "tiền lương thực lĩnh" vẫn không tăng. So sánh "Thu nhập Hàng năm" và "Tỷ lệ Gánh nặng Quốc gia" trong 10 năm qua.
Mức lương tối thiểu quốc gia đã vượt quá 1.000 yên, và tốc độ tăng lương đang tăng tốc. Tuy nhiên, tiền lương thực tế, tính đến lạm phát, đã giảm 1,4%, vẫn không thể theo kịp lạm phát. Ngoài việc...
Thumbnail bài viết: Nhân tài công nghệ thông tin ở nước ngoài sẽ không đổ về Nhật Bản ngay cả dưới thời chính quyền Trump ?
Nhân tài công nghệ thông tin ở nước ngoài sẽ không đổ về Nhật Bản ngay cả dưới thời chính quyền Trump ?
Ngay cả với các chính sách nhập cư chặt chẽ hơn của chính quyền Trump, cơ hội tuyển dụng nhân tài công nghệ thông tin ở nước ngoài vẫn không lớn. Theo một khảo sát các nhà quản lý doanh nghiệp vừa...
Thumbnail bài viết: Làm công việc phụ có được coi là hoạt động chuyển việc ? Từ "bổ sung thu nhập" đến "phát triển sự nghiệp"
Làm công việc phụ có được coi là hoạt động chuyển việc ? Từ "bổ sung thu nhập" đến "phát triển sự nghiệp"
Một cuộc khảo sát do một công ty tư nhân thực hiện cho thấy tỷ lệ nhân viên làm công việc phụ , tỷ lệ công ty chấp nhận nhân viên làm công việc phụ đều đạt mức cao kỷ lục. Điều này cho thấy nhận...
Thumbnail bài viết: Tại sao khoản trợ cấp 20.000 yên cho mỗi trẻ em lại bị chỉ trích ? Mức sống thấp, bao gồm cả tình trạng nghèo đói của thế hệ Kỷ băng hà là yếu tố.
Tại sao khoản trợ cấp 20.000 yên cho mỗi trẻ em lại bị chỉ trích ? Mức sống thấp, bao gồm cả tình trạng nghèo đói của thế hệ Kỷ băng hà là yếu tố.
Vào ngày 21, chính phủ đã phê duyệt gói kích thích kinh tế trị giá 21,3 nghìn tỷ yên. Gói này cung cấp 20.000 yên cho mỗi trẻ em đến tuổi trung học. Dư luận đang chia rẽ về biện pháp này. Trong...
Thumbnail bài viết: 60% "ủng hộ" việc tăng chi tiêu quốc phòng, 80% trong độ tuổi 18-29, 40% số người từ 70 tuổi trở lên .  Sự khác biệt giữa các thế hệ là rõ ràng.
60% "ủng hộ" việc tăng chi tiêu quốc phòng, 80% trong độ tuổi 18-29, 40% số người từ 70 tuổi trở lên . Sự khác biệt giữa các thế hệ là rõ ràng.
Trong một cuộc thăm dò ý kiến chung do Sankei Shimbun và Fuji News Network (FNN) thực hiện vào ngày 22 và 23, những người được hỏi được hỏi liệu họ ủng hộ hay phản đối chính sách tăng nhanh chi...
Thumbnail bài viết: Nhật Bản : 83% người tiêu dùng ưu tiên gạo sản xuất trong nước khi mua gạo, tăng 6 điểm so với khảo sát trước đó.
Nhật Bản : 83% người tiêu dùng ưu tiên gạo sản xuất trong nước khi mua gạo, tăng 6 điểm so với khảo sát trước đó.
Một khảo sát của Liên minh Hợp tác xã Người tiêu dùng Nhật Bản (JCCU) cho thấy hầu hết người tiêu dùng mua gạo đều quan tâm đến nguồn gốc trong nước. 83% ưu tiên gạo sản xuất trong nước khi mua...
Thumbnail bài viết: Yêu cầu hạn chế du lịch của Trung Quốc, những điểm chính để đo lường tác động đến nền kinh tế Nhật Bản.
Yêu cầu hạn chế du lịch của Trung Quốc, những điểm chính để đo lường tác động đến nền kinh tế Nhật Bản.
Đáp lại phát biểu của Thủ tướng Takaichi Sanae về tình trạng khẩn cấp tại Đài Loan, chính phủ Trung Quốc đã kêu gọi người dân hạn chế du lịch đến Nhật Bản, và có thông tin cho rằng các tour du...
Thumbnail bài viết: Nhật Bản : Đánh giá Thu nhập tài chính ưu tiên người cao tuổi. Bao gồm Phí Bảo hiểm, giảm gánh nặng cho thế hệ lao động.
Nhật Bản : Đánh giá Thu nhập tài chính ưu tiên người cao tuổi. Bao gồm Phí Bảo hiểm, giảm gánh nặng cho thế hệ lao động.
Ngày 24, có thông tin cho biết chính phủ Nhật Bản đang điều chỉnh cách tiếp cận để đánh giá toàn diện thu nhập tài chínhvà phản ánh vào chi phí y tế tự chi trả và phí bảo hiểm, với mục tiêu ưu...
Thumbnail bài viết: Nhật Bản : 53% "không đánh giá" việc sử dụng phiếu gạo, 28% "đánh giá".
Nhật Bản : 53% "không đánh giá" việc sử dụng phiếu gạo, 28% "đánh giá".
Tờ Mainichi Shimbun đã tiến hành một cuộc thăm dò ý kiến trên toàn quốc vào ngày 22 và 23. Về phiếu gạo, vốn sử dụng các khoản trợ cấp mà chính quyền địa phương có thể tự do sử dụng, 53% "không...
Thumbnail bài viết: 71% người dân Nhật Bản ủng hộ việc thắt chặt chính sách đối xử với người nước ngoài. Khảo sát của tờ Mainichi Shimbun.
71% người dân Nhật Bản ủng hộ việc thắt chặt chính sách đối xử với người nước ngoài. Khảo sát của tờ Mainichi Shimbun.
Tờ Mainichi Shimbun đã tiến hành một cuộc thăm dò ý kiến trên toàn quốc vào ngày 22 và 23. Khi được hỏi về chính sách thắt chặt chính sách đối xử với người nước ngoài của Thủ tướng Sanae Takaichi...
Your content here
Top