Từ "Trung Quốc" được dùng sớm nhất là trong "Diên Hi thức" (Engishiki) thời đại Bình An (Heian). Nhật Bản bắt chước theo bên Trung Quốc mà chia cả nước làm 5 kỳ 7 đạo. Trừ số căn cứu theo nhân khẩu mà phân hạng là đại quốc (大國), thượng quốc (上國), hạ quốc (下國), còn lại căn cứ theo khoảng cách giữa dịch trạm và kinh kỳ mà phân thành cận quốc (近國), trung quốc (中國) và viễn quốc (遠國). Hai đạo Sơn Âm (山陰) và Sơn Dương (山陽) được gọi chung là "trung quốc". Đây chính là cội rễ để sau này xuất hiện cái tên "Trung Quốc địa phương" 中國地方 (viết theo kiểu chữ giản hoá là 中国地方).
Còn từ Trung Quốc (中國/中国) ở Trung Quốc thì đã có từ khi nước Trung Hoa Dân quốc (中華民国/中华民国) ra đời. Tối thiểu nó đã được dùng từ thời nhà Chu, rất có thể là còn sớm hơn nữa nhưng ý nghĩa thì có sự khác biệt so với cách dùng hiện nay.