Kinh tế Sự giàu có của Nhật Bản đã quay trở lại những năm 1970? GDP đứng thứ 4? Mức lương có thấp hơn Hàn Quốc không? Khảo sát nào là chính xác?

Kinh tế Sự giàu có của Nhật Bản đã quay trở lại những năm 1970? GDP đứng thứ 4? Mức lương có thấp hơn Hàn Quốc không? Khảo sát nào là chính xác?

Khi so sánh GDP, năng suất, tiền lương, ... trên phạm vi quốc tế, chỉ số sức mua tương đương thường được sử dụng. Tuy nhiên, hãy cẩn thận khi sử dụng chỉ số này. Nếu bạn sử dụng nó mà không hiểu khái niệm, thì sẽ nhận được kết luận sai. Liên quan đến điều này, cũng có một chỉ số được gọi là "tỷ giá hối đoái thực". Sự “giàu có” của người Nhật được nhìn nhận theo cách này thực sự đã lùi về thời đại đó.

● Trung Quốc đã là nền kinh tế lớn nhất thế giới chưa?

Về GDP, Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới, tiếp theo là Trung Quốc, và thứ ba là Nhật Bản. Đây là hình ảnh thế giới mà người thường nghĩ đến.

Chắc chắn, nếu bạn nhìn vào trang thống kê của IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế), định giá tỷ giá hối đoái thị trường theo thứ tự của Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản.

Tuy nhiên, trang web tương tự cũng có dữ liệu dựa trên sức mua tương đương. Theo đó, về GDP, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Ấn Độ và Nhật Bản theo thứ tự đó, với Trung Quốc đứng đầu Hoa Kỳ và Ấn Độ đứng đầu Nhật Bản.

Năm 2017, Trung Quốc đã vượt Hoa Kỳ về chỉ số này. Ấn Độ đã vượt qua Nhật Bản vào năm 2009. Cái nào là đúng?

Người ta thường nói rằng năng suất của Nhật Bản thấp hơn các nước khác. Ngoài ra, lương của Nhật Bản đang tăng với tốc độ thấp hơn so với các nước khác và gần đây họ đã bị Hàn Quốc vượt mặt. Tuy nhiên, nhìn vào các dữ liệu khác, giá trị của Hàn Quốc vẫn thấp hơn Nhật Bản. Câu nào đúng?

Một chủ đề khác là sức mua thực tế của đồng yên đã giảm xuống mức tương tự như trong nửa cuối những năm 1970. Điều đó có nghĩa là gì? Có nghĩa là mức sống của người Nhật đã quay trở lại cuối những năm 1970?

Các vấn đề được đề cập ở trên liên quan đến tỷ giá hối đoái được sử dụng khi thực hiện so sánh giữa các quốc gia. Và điều này là khá khó hiểu.

● "Sức mua tương đương" là gì?

Cách dễ nhất để so sánh quốc tế là sử dụng tỷ giá hối đoái thị trường hiện tại.

Tuy nhiên, nhiều dữ liệu so sánh quốc tế sử dụng các tỷ giá hối đoái khác nhau. Đó là khái niệm “sức mua tương đương”.

Khái niệm này không đơn giản như vậy. Nếu được sử dụng mà không hiểu chính xác về ý nghĩa của nó, nó có thể dẫn đến kết luận không chính xác.

Hiện tại, ở Nhật Bản, chỉ số giá tiêu dùng là 0%, nhưng ở Hoa Kỳ, nó sẽ tăng 20% trong 10 năm.

Nếu tốc độ tăng lương bằng tốc độ tăng giá thì tỷ giá hối đoái phải cao hơn hiện nay khoảng 20% để người Nhật có thể mua được thứ tương tự ở Hoa Kỳ trong 10 năm tới. .

Nếu tỷ giá hiện tại là 1 yên = 0,009 đô la (1 đô la = 110 yên), thì nó phải là 1 yên = 0,0109 đô la (1 đô la = 91,7 yên). Tỷ lệ này là sức mua tương đương cho năm 2030 dựa trên năm 2020.

Ngoài ra, như giá trong phép tính này, có thể sử dụng giá khác với giá tiêu dùng.

● Sức mua tương đương cho thấy tỷ giá hối đoái phải là bao nhiêu

Tại sao tỷ lệ như vậy được sử dụng? Một lý do là không thể dự đoán được tỷ giá hối đoái trong tương lai khi dự báo tương lai của GDP.

Tuy nhiên, nếu đó là giá tiêu dùng, một số phỏng đoán có thể được đưa ra từ dữ liệu trong quá khứ. Do đó, ngang giá sức mua được sử dụng làm tỷ giá hối đoái tại một thời điểm trong tương lai.

Không biết liệu tỷ giá hối đoái thực tế trong tương lai có phù hợp với sức mua tương đương vào thời điểm đó hay không. Người ta tin rằng sức mạnh để làm như vậy sẽ hoạt động trên thị trường, nhưng không có gì đảm bảo rằng nó sẽ thành công.

Cơ chế xác định tỷ giá hối đoái là một bài toán cực kỳ khó. Chúng tôi sẽ không đi sâu vào vấn đề đó ở đây.

Ngoài ra, sức mua tương đương không chỉ được tính cho tương lai. Nó có thể được tính toán hồi tố. Hơn nữa, thời gian tham chiếu không phải lúc nào cũng là hiện tại. Nó có thể dựa trên một thời điểm trong quá khứ.

Nhìn vào sức mua tương đương dựa trên thời điểm trong quá khứ, chúng ta có thể thấy như sau.

Giả sử rằng tỷ giá hối đoái tự do biến động cho đến một thời điểm, nhưng sau đó sự can thiệp của ngoại hối diễn ra và đồng tiền của quốc gia trở nên rẻ hơn.

Nếu bạn muốn biết tỷ giá hối đoái sẽ như thế nào nếu không có can thiệp ngoại hối nào diễn ra, bạn có thể xem xét sức mua tương đương dựa trên thời điểm trước khi can thiệp bắt đầu.

Trong trường hợp của Nhật Bản, sự can thiệp ngoại hối bắt đầu diễn ra vào khoảng năm 1990, vì vậy các chỉ số như vậy rất có ý nghĩa.

● Hãy cẩn thận khi sử dụng sức mua tương đương

So sánh giá trị hiện tại giữa các quốc gia theo sức mua tương đương dựa trên các mốc thời gian trong quá khứ dường như không có nhiều ý nghĩa.

Nếu muốn so sánh giữa các quốc gia, sẽ thích hợp hơn nếu sử dụng tỷ giá hối đoái thực tế.

Người ta thường nói rằng năng suất của Nhật Bản thấp khi sử dụng dữ liệu của OECD, nhưng trong nhiều trường hợp, dữ liệu dựa trên sức mua tương đương dựa trên các điểm trong quá khứ được sử dụng. Hãy cẩn thận để xem kết quả này.

Tỷ giá hối đoái hiện tại thường khác với tỷ giá ngang giá sức mua dựa trên các thời điểm trong quá khứ, vì vậy, ngay cả khi bạn so sánh năng suất và GDP theo quốc gia với dữ liệu được quy đổi bằng cách sử dụng sức mua tương đương, thì chắc chắn nó có ý nghĩa như vậy.

Như đã đề cập ở phần đầu của bài viết này, GDP của Trung Quốc và Ấn Độ là lớn khi được đánh giá dựa trên sức mua tương đương. Đây có thể là một đánh giá quá cao.

Tuy nhiên, để biết giá trị thực đã thay đổi như thế nào đối với mỗi quốc gia, cần xem xét dữ liệu dựa trên sức mua tương đương, loại trừ ảnh hưởng của biến động tỷ giá hối đoái.

● Mức độ phong phú được thể hiện trong “tỷ giá hối đoái thực” là gì?

Bây giờ, giả sử rằng sức mua tương đương dựa trên một thời điểm nhất định là 90 yên đối với đồng đô la. Tại thời điểm này, nếu tỷ giá hối đoái thực tế là 110 yên với đô la, thì đồng yên sẽ yếu hơn (bị đánh giá thấp hơn) so với sức mua tương đương.

Nói cách khác, sức mua của đồng yên thấp hơn so với năm cơ sở. Điều này được thể hiện bằng một chỉ số được gọi là "tỷ giá hối đoái thực". Đây là tỷ lệ giữa tỷ giá hối đoái thực tế trên sức mua tương đương. Trong ví dụ này, nếu bạn biểu thị nó dưới dạng chỉ số với năm cơ sở là 100, thì nó là 90 x 100 ÷ 110 = 80.

Trang web thống kê của ngân hàng trung ương Nhật Bản đưa ra một chỉ số với năm 2010 là 100 (dữ liệu gốc được tính toán bởi BIS: ngân hàng thanh toán quốc tế).

Đây là mức trung bình có trọng số dựa trên số lượng giao dịch, bao gồm tỷ giá hối đoái cho các loại tiền tệ khác nhau cũng như đồng đô la. Đây được gọi là "tỷ giá hiệu quả" (lưu ý rằng cái được gọi là "tỷ giá hối đoái hiệu quả danh nghĩa" cũng được tính toán. Đây là bình quân gia quyền của tỷ giá hối đoái được lập chỉ mục theo số lượng giao dịch, v.v.).

Chỉ số tỷ giá hối đoái thực của đồng yên là 70 đơn vị vào nửa cuối những năm 1970. Sau đó, nó tăng lên khoảng 120 vào nửa cuối năm 1980 và khoảng 140 vào nửa cuối những năm 1990. Nói cách khác, nó đã tăng gấp đôi kể từ những năm 1970.

Tuy nhiên, nó đạt đỉnh vào khoảng năm 1995 và sau đó giảm dần. Đó là khoảng 120 vào khoảng năm 2000. Quá trình chuyển đổi năm 2013 vẫn ở mức dưới 80.

Và vào tháng 6 năm 2021, nó đã giảm xuống còn 70,17. Nói cách khác, sức mua của đồng yên đã giảm khoảng 30% so với năm 2000.

Nó được nói đến khi chỉ số này đã trở lại mức vào cuối những năm 1970.

Nói một cách hình tượng, điều này như sau.

Giả sử bạn có xếp hạng khách sạn ở Hoa Kỳ từ 1 đến 5 (số nhỏ hơn cao hơn). Giả sử rằng nơi mà người Nhật bình thường có thể ở lại với mức lương của chính họ là hạng 4 vào những năm 1970.

Sau đó, Nhật Bản trở nên giàu có hơn, và vào những năm 1980 và 1990, việc ở trong các khách sạn hạng 1 đã trở nên phổ biến. Nhưng bây giờ nó lại trở lại lớp 4 một lần nữa.

Mặc dù là khách sạn hạng 4 nhưng cơ sở vật chất sẽ tốt hơn trước đây. Ví dụ, những gì không có điều hòa không khí trong những năm 1970 hiện nay. Tuy nhiên, hạng 1 hiện tại là một thông số kỹ thuật sang trọng hơn.

Chỉ số tỷ giá hối đoái thực không thể hiện sự sung túc theo nghĩa đó, mà là một vị trí tương đối trong tổng thể.

Cần phải hiểu rõ rằng mức độ giàu có tương đối của người Nhật trên thế giới đã giảm khoảng một nửa so với những năm 1980 và 1990.

Theo @fintech_journal

 

Đính kèm

  • ダウンロード (59).webp
    ダウンロード (59).webp
    14.3 KB · Lượt xem: 286

Bài viết liên quan

Thumbnail bài viết: Nhật Bản : Tổng số khách lưu trú qua đêm trong tháng 9 đạt 54,99 triệu người, tháng giảm thứ tư liên tiếp.
Nhật Bản : Tổng số khách lưu trú qua đêm trong tháng 9 đạt 54,99 triệu người, tháng giảm thứ tư liên tiếp.
Theo số liệu thống kê du lịch sơ bộ tháng 9 do Tổng cục Du lịch Nhật Bản công bố vào ngày 31, tổng số khách Nhật Bản và khách nước ngoài lưu trú tại các khách sạn và nhà nghỉ tại Nhật Bản là 54,99...
Thumbnail bài viết: "Bà Takaichi có phong thái tốt" - Những bình luận tích cực trên mạng xã hội về hành vi của Thủ tướng Takaichi.
"Bà Takaichi có phong thái tốt" - Những bình luận tích cực trên mạng xã hội về hành vi của Thủ tướng Takaichi.
Ngày 21 tháng 10, Thủ tướng Sanae Takaichi đã được bầu làm Thủ tướng thứ 104 của Nhật Bản trong cuộc bầu cử thủ tướng do cả Hạ viện và Thượng viện tổ chức, trở thành nữ thủ tướng đầu tiên của Nhật...
Thumbnail bài viết: Bảng xếp hạng tên trẻ sơ sinh  ."Ao" đứng đầu cho bé trai và "Sui" đứng đầu cho bé gái.
Bảng xếp hạng tên trẻ sơ sinh ."Ao" đứng đầu cho bé trai và "Sui" đứng đầu cho bé gái.
Tập đoàn Benesse (Thành phố Okayama) đã công bố "Bảng xếp hạng tên trẻ sơ sinh năm 2025", dựa trên khảo sát và tổng hợp tên của khoảng 166.000 trẻ sơ sinh sinh từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2025...
Thumbnail bài viết: Xếp hạng "vấn đề" với người thuê nhà nước ngoài, hạng 3 : "Sử dụng sai không gian chung" . Vị trí thứ hai và thứ nhất là ?
Xếp hạng "vấn đề" với người thuê nhà nước ngoài, hạng 3 : "Sử dụng sai không gian chung" . Vị trí thứ hai và thứ nhất là ?
AlbaLink ( quận Koto , Tokyo), đơn vị điều hành kênh thông tin bất động sản "Rừng Đầu tư Bất động sản", đã thực hiện một cuộc khảo sát về "vấn đề với người thuê nhà nước ngoài" trong số 500 người...
Thumbnail bài viết: Nhật Bản : Muji thu hồi sản phẩm xịt thơm phòng, phát hiện 600.000 sản phẩm do phát hiện vi khuẩn.
Nhật Bản : Muji thu hồi sản phẩm xịt thơm phòng, phát hiện 600.000 sản phẩm do phát hiện vi khuẩn.
Vào ngày 30, Muji đã thông báo tự nguyện thu hồi một số sản phẩm thuộc dòng sản phẩm xịt thơm phòng "Room Fragrance Spray" được bán tại các cửa hàng Muji. Việc thu hồi này là do phát hiện vi khuẩn...
Thumbnail bài viết: Nhật Bản : Thu nhập doanh nghiệp đạt mức kỷ lục 102 nghìn tỷ Yên. Kết quả tài chính năm tài chính 2024 số tiền thuế vượt mức thời kỳ bong bóng.
Nhật Bản : Thu nhập doanh nghiệp đạt mức kỷ lục 102 nghìn tỷ Yên. Kết quả tài chính năm tài chính 2024 số tiền thuế vượt mức thời kỳ bong bóng.
Vào ngày 30, Cơ quan Thuế Quốc gia Nhật Bản công bố tổng thu nhập doanh nghiệp khai báo trong năm tài chính 2024 đạt mức cao kỷ lục 102,3381 nghìn tỷ yên, tăng 4,1% so với năm trước. Đây là lần...
Thumbnail bài viết: Tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 9 là 2,6%, trong khi điều kiện việc làm vẫn ổn định. Tỷ lệ có việc làm trên số người nộp đơn là 1,20.
Tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 9 là 2,6%, trong khi điều kiện việc làm vẫn ổn định. Tỷ lệ có việc làm trên số người nộp đơn là 1,20.
Chính phủ đã công bố các chỉ số liên quan đến việc làm trong tháng 9 vào ngày 31, cho thấy tỷ lệ thất nghiệp điều chỉnh theo mùa là 2,6%, không đổi so với tháng trước. Thị trường lao động đang mở...
Thumbnail bài viết: Nhật Bản : Hội nghị về các biện pháp đối phó với gấu sẽ được xây dựng vào giữa tháng 11.
Nhật Bản : Hội nghị về các biện pháp đối phó với gấu sẽ được xây dựng vào giữa tháng 11.
Để ứng phó với thiệt hại ngày càng nghiêm trọng do gấu gây ra trên khắp cả nước, bao gồm cả vụ một người đàn ông bị gấu tấn công và bị thương tại thành phố Numata vào ngày 29, chính phủ đã tổ chức...
Thumbnail bài viết: Nhật Bản : Giá thực phẩm sẽ tăng đối với 143 mặt hàng trong tháng 11, bánh kẹo chiếm tỷ trọng lớn.
Nhật Bản : Giá thực phẩm sẽ tăng đối với 143 mặt hàng trong tháng 11, bánh kẹo chiếm tỷ trọng lớn.
Hơn 500 mặt hàng dự kiến tăng giá trong năm 2026 . Tốc độ tăng giá sẽ chậm lại đáng kể Trong số 195 nhà sản xuất thực phẩm lớn, 143 mặt hàng thực phẩm và đồ uống, chủ yếu dùng trong gia đình, đã...
Thumbnail bài viết: Nhật Bản : Cuộc họp Nội các Bộ trưởng đầu tiên về Chính sách Người nước ngoài được tổ chức vào tuần tới.
Nhật Bản : Cuộc họp Nội các Bộ trưởng đầu tiên về Chính sách Người nước ngoài được tổ chức vào tuần tới.
Thủ tướng Sanae Takaichi đã quyết định tổ chức phiên họp đầu tiên của Hội đồng Nội các liên quan về chính sách đối ngoại sớm nhất vào ngày 4 tháng 11. Bà dự kiến sẽ chỉ đạo một nghiên cứu nhằm...
Your content here
Top