Tình trạng phá sản và đóng cửa doanh nghiệp do thiếu hụt lao động đã gia tăng mạnh mẽ trong những năm gần đây. Nguyên nhân là do sự rời đi của các nhân tài đến từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) trong khi các công ty lớn vẫn duy trì mức lương cao. Tác động tiêu cực của tình trạng thiếu hụt lao động dự kiến sẽ ngày càng trầm trọng hơn qua từng năm. Tại sao phản ứng của Nhật Bản trước tình trạng thiếu hụt lao động lại chậm chạp đến vậy?
Câu trả lời là kể từ khi Abenomics được triển khai vào năm 2013, xu hướng giảm tỷ lệ thất nghiệp đã bắt đầu thu hút sự chú ý. Tỷ lệ thất nghiệp, vốn là 4,3% vào năm 2012, tiếp tục giảm xuống còn 4,0% vào năm 2013 (giảm 0,3% so với năm trước), 3,6% vào năm 2014 (giảm 0,4% so với năm trước) và 3,4% vào năm 2015 (giảm 0,2% so với năm trước).
Chính quyền lúc bấy giờ tuyên bố rằng sự sụt giảm tỷ lệ thất nghiệp này là "thành tựu của Abenomics". Và phần lớn các cơ quan truyền thông bắt đầu đưa tin theo hướng đi ngược lại tuyên bố của chính phủ.
Vấn đề thiếu hụt lao động lẽ ra phải là trọng tâm chính trong năm 2012.
Tuy nhiên ngay tại thời điểm đó, sự sụt giảm tỷ lệ thất nghiệp phần lớn là do tình trạng thiếu hụt lao động do sự nghỉ hưu hàng loạt của thế hệ bùng nổ dân số. Nguyên nhân là do thế hệ bùng nổ dân số đã bước sang tuổi 65 trong ba năm từ 2012 đến 2014, và tốc độ suy giảm đã tăng tốc đáng kể.
Trên thực tế, dân số trong độ tuổi lao động của Nhật Bản đã giảm 390.000 người so với năm trước đó là 2011, nhưng đã giảm 1,17 triệu người vào năm 2012 và 2013, và 1,16 triệu người vào năm 2014, một mức giảm thậm chí còn lớn hơn. Ngay từ đầu, rõ ràng là tỷ lệ thất nghiệp sẽ tiếp tục giảm.
Thực tế, tỷ lệ thất nghiệp năm 2012, trước khi Abenomics được triển khai, đã giảm 0,3% so với năm trước, vì vậy việc quy kết tỷ lệ thất nghiệp giảm là do chính sách kinh tế là khá quá đáng. [Để biết thêm lập luận tương tự, hãy xem bài viết của tôi từ ngày 2 tháng 3 năm 2015.]
Tuy nhiên, phân tích như vậy đã không được các phương tiện truyền thông lớn chấp nhận. Sự sụt giảm tỷ lệ thất nghiệp rõ ràng là do một thực tế ai cũng biết: lực lượng lao động đang giảm do tỷ lệ sinh giảm và dân số già hóa. Mặc dù vậy, các đài truyền hình, vì tò mò về chính phủ lúc bấy giờ, đã cố gắng đánh lạc hướng người xem khỏi sự thật khó chịu này.
Truyền hình phải chịu một phần trách nhiệm lớn trong việc gây ra tình trạng thiếu hụt lao động ngày càng trầm trọng.
Tôi tin rằng lý do Nhật Bản phản ứng chậm chạp với tình trạng thiếu hụt lao động là do thái độ đưa tin của các đài truyền hình.
Vào thời điểm mà truyền hình vẫn còn được tin cậy hơn hiện nay, việc liên tục đưa tin rằng tỷ lệ thất nghiệp giảm là kết quả của Abenomics đã gây ra tác động tiêu cực đáng kể. Công chúng đã không nhận ra mức độ nghiêm trọng của tình trạng thiếu hụt lao động sau đó, và thời gian trôi qua một cách vô ích.Tin tức truyền hình nên đào sâu vào các sự kiện xảy ra vào thời điểm đó bằng cách thu thập nhiều ý kiến chuyên gia và xác minh dữ liệu khách quan. Tuy nhiên, việc họ không làm như vậy có thể đã dẫn đến việc mất lòng tin của khán giả là người dân.
Tất nhiên, tôi không có ý định đổ lỗi hoàn toàn cho các đài truyền hình. Chính phủ lúc bấy giờ, vốn từ chối lắng nghe bất kỳ ý kiến phê phán nào, cũng có những sai sót, giống như phần lớn các chuyên gia vốn chỉ bó hẹp trong quan điểm sách giáo khoa rằng "tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn = nền kinh tế bùng nổ".
Vì vậy Chính phủ các chính trị gia cần cân nhắc các biện pháp đối phó , xem xét tương lai của nền kinh tế Nhật Bản, và tình trạng thiếu hụt lao động nghiêm trọng sẽ là nút thắt lớn nhất. Với tình hình chính phủ hiện đang suy yếu, tôi hy vọng họ sẽ tập hợp mọi nguồn lực chính trị và thực hiện các biện pháp để giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động càng sớm càng tốt.
Điều tôi tha thiết kêu gọi các chính trị gia ngày nay là hãy thu thập ý kiến của nhiều chuyên gia trước khi thảo luận về các biện pháp đối phó. Tôi muốn họ tập hợp kiến thức của càng nhiều chuyên gia trong càng nhiều lĩnh vực càng tốt, bao gồm lịch sử, triết học, tâm lý học, xã hội học, quản trị kinh doanh, vật lý, sinh học, kỹ thuật và khoa học thông tin.
Làm như vậy, chúng ta có thể bất ngờ tìm ra rất nhiều hiểu biết hữu ích mà các nhà kinh tế, và chỉ riêng các nhà kinh tế, sẽ không nghĩ ra được. Những hiểu biết này sau đó có thể được sử dụng để thảo luận chuyên sâu tại các cuộc họp về các biện pháp đối phó.
Hiệu ứng của việc giao thoa giữa các lĩnh vực chuyên môn đã dẫn đến nhiều đổi mới trên toàn thế giới. Tại sao không chủ động vận dụng điều này trong chính trị khi quyết định các chính sách quan trọng ?
( Nguồn tiếng Nhật )
Câu trả lời là kể từ khi Abenomics được triển khai vào năm 2013, xu hướng giảm tỷ lệ thất nghiệp đã bắt đầu thu hút sự chú ý. Tỷ lệ thất nghiệp, vốn là 4,3% vào năm 2012, tiếp tục giảm xuống còn 4,0% vào năm 2013 (giảm 0,3% so với năm trước), 3,6% vào năm 2014 (giảm 0,4% so với năm trước) và 3,4% vào năm 2015 (giảm 0,2% so với năm trước).
Chính quyền lúc bấy giờ tuyên bố rằng sự sụt giảm tỷ lệ thất nghiệp này là "thành tựu của Abenomics". Và phần lớn các cơ quan truyền thông bắt đầu đưa tin theo hướng đi ngược lại tuyên bố của chính phủ.
Vấn đề thiếu hụt lao động lẽ ra phải là trọng tâm chính trong năm 2012.
Tuy nhiên ngay tại thời điểm đó, sự sụt giảm tỷ lệ thất nghiệp phần lớn là do tình trạng thiếu hụt lao động do sự nghỉ hưu hàng loạt của thế hệ bùng nổ dân số. Nguyên nhân là do thế hệ bùng nổ dân số đã bước sang tuổi 65 trong ba năm từ 2012 đến 2014, và tốc độ suy giảm đã tăng tốc đáng kể.
Trên thực tế, dân số trong độ tuổi lao động của Nhật Bản đã giảm 390.000 người so với năm trước đó là 2011, nhưng đã giảm 1,17 triệu người vào năm 2012 và 2013, và 1,16 triệu người vào năm 2014, một mức giảm thậm chí còn lớn hơn. Ngay từ đầu, rõ ràng là tỷ lệ thất nghiệp sẽ tiếp tục giảm.
Thực tế, tỷ lệ thất nghiệp năm 2012, trước khi Abenomics được triển khai, đã giảm 0,3% so với năm trước, vì vậy việc quy kết tỷ lệ thất nghiệp giảm là do chính sách kinh tế là khá quá đáng. [Để biết thêm lập luận tương tự, hãy xem bài viết của tôi từ ngày 2 tháng 3 năm 2015.]
Tuy nhiên, phân tích như vậy đã không được các phương tiện truyền thông lớn chấp nhận. Sự sụt giảm tỷ lệ thất nghiệp rõ ràng là do một thực tế ai cũng biết: lực lượng lao động đang giảm do tỷ lệ sinh giảm và dân số già hóa. Mặc dù vậy, các đài truyền hình, vì tò mò về chính phủ lúc bấy giờ, đã cố gắng đánh lạc hướng người xem khỏi sự thật khó chịu này.
Truyền hình phải chịu một phần trách nhiệm lớn trong việc gây ra tình trạng thiếu hụt lao động ngày càng trầm trọng.
Tôi tin rằng lý do Nhật Bản phản ứng chậm chạp với tình trạng thiếu hụt lao động là do thái độ đưa tin của các đài truyền hình.
Vào thời điểm mà truyền hình vẫn còn được tin cậy hơn hiện nay, việc liên tục đưa tin rằng tỷ lệ thất nghiệp giảm là kết quả của Abenomics đã gây ra tác động tiêu cực đáng kể. Công chúng đã không nhận ra mức độ nghiêm trọng của tình trạng thiếu hụt lao động sau đó, và thời gian trôi qua một cách vô ích.Tin tức truyền hình nên đào sâu vào các sự kiện xảy ra vào thời điểm đó bằng cách thu thập nhiều ý kiến chuyên gia và xác minh dữ liệu khách quan. Tuy nhiên, việc họ không làm như vậy có thể đã dẫn đến việc mất lòng tin của khán giả là người dân.
Tất nhiên, tôi không có ý định đổ lỗi hoàn toàn cho các đài truyền hình. Chính phủ lúc bấy giờ, vốn từ chối lắng nghe bất kỳ ý kiến phê phán nào, cũng có những sai sót, giống như phần lớn các chuyên gia vốn chỉ bó hẹp trong quan điểm sách giáo khoa rằng "tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn = nền kinh tế bùng nổ".
Vì vậy Chính phủ các chính trị gia cần cân nhắc các biện pháp đối phó , xem xét tương lai của nền kinh tế Nhật Bản, và tình trạng thiếu hụt lao động nghiêm trọng sẽ là nút thắt lớn nhất. Với tình hình chính phủ hiện đang suy yếu, tôi hy vọng họ sẽ tập hợp mọi nguồn lực chính trị và thực hiện các biện pháp để giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động càng sớm càng tốt.
Điều tôi tha thiết kêu gọi các chính trị gia ngày nay là hãy thu thập ý kiến của nhiều chuyên gia trước khi thảo luận về các biện pháp đối phó. Tôi muốn họ tập hợp kiến thức của càng nhiều chuyên gia trong càng nhiều lĩnh vực càng tốt, bao gồm lịch sử, triết học, tâm lý học, xã hội học, quản trị kinh doanh, vật lý, sinh học, kỹ thuật và khoa học thông tin.
Làm như vậy, chúng ta có thể bất ngờ tìm ra rất nhiều hiểu biết hữu ích mà các nhà kinh tế, và chỉ riêng các nhà kinh tế, sẽ không nghĩ ra được. Những hiểu biết này sau đó có thể được sử dụng để thảo luận chuyên sâu tại các cuộc họp về các biện pháp đối phó.
Hiệu ứng của việc giao thoa giữa các lĩnh vực chuyên môn đã dẫn đến nhiều đổi mới trên toàn thế giới. Tại sao không chủ động vận dụng điều này trong chính trị khi quyết định các chính sách quan trọng ?
( Nguồn tiếng Nhật )
Có thể bạn sẽ thích