Việc làm ''Thực tế phũ phàng'' rằng Nhật Bản giá rẻ đang bị ''người lao động nước ngoài'' bỏ rơi.

Việc làm ''Thực tế phũ phàng'' rằng Nhật Bản giá rẻ đang bị ''người lao động nước ngoài'' bỏ rơi.

Lao động nước ngoài đang thiếu hụt trầm trọng

4jkl4CfYnbWoWyzD5J8BrQIqM5VG7dWeQ4YChLcv2kAlEFK9mUeExnzrhlnsmxkhQqMA9yYiPfj8invRZlODS_e0um4jr4...jpg


Khi nói đến việc chống lại sự suy giảm số lượng người trong độ tuổi lao động, nhiều người cho rằng “có lẽ sử dụng người lao động nước ngoài sẽ tốt hơn”. Bị thúc ép bởi tiếng nói của các tổ chức kinh doanh, chính phủ đã và đang đẩy mạnh hệ thống cải cách nhằm mở rộng sự tiếp nhận người nước ngoài

Tuy nhiên, thực tế là số lượng người nước ngoài được tiếp nhận chưa tăng nhiều như cộng đồng doanh nghiệp mong đợi.

Viện Nghiên cứu Hòa bình và Phát triển Sadako Ogata, viện nghiên cứu của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) và Viện Nghiên cứu Giá trị của Tập đoàn Ngân hàng Phát triển Nhật Bản đã công bố một báo cáo tóm tắt ước tính số lượng lao động nước ngoài sẽ cần thiết trong tương lai cho tăng trưởng kinh tế.

Giả định rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tương lai sẽ là 1,24% dựa trên triển vọng đầu tư vốn và đánh giá của Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi về tài chính lương hưu, và GDP vào năm 2040 sẽ đạt 704 nghìn tỷ yên, tăng 36% so với năm 2015. Hơn nữa, theo ước tính của Viện Chính sách và Đào tạo Lao động Nhật Bản, lực lượng lao động của Nhật Bản sẽ là 58,53 triệu người vào năm 2040, ít hơn 7,78 triệu người so với năm 2015, ngay cả khi tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ và người già tăng lên. Dựa trên dự báo, Viện tính toán số lượng lao động nước ngoài cần thiết để đạt được mục tiêu GDP.

Kết luận là ngay cả khi hiệu quả kinh doanh được cải thiện thông qua đầu tư vốn thì sẽ cần 4,19 triệu người nước ngoài vào năm 2030 và 6,74 triệu người vào năm 2040; Năm 2040, chỉ có 3,56 triệu người đến Nhật Bản và chỉ có 6,32 triệu người đến Nhật Bản vào năm 2040, dẫn đến thiếu hụt lần lượt 630.000 người và 420.000 người.

Theo Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi, số lượng lao động nước ngoài tính đến cuối tháng 10 năm 2021 chỉ dưới 1,73 triệu người. Trong số này, khoảng 352.000 người tham gia vào hệ thống “đào tạo thực tập sinh kỹ năng”, mục đích là để tiếp thu các kỹ năng và kỹ thuật ở Nhật Bản, và khoảng 335.000 người tham gia vào “các hoạt động khác ngoài những hoạt động được phép theo trình độ"' chẳng hạn như công việc bán thời gian của du học sinh . Cả hai phong cách làm việc này đều cho rằng người nước ngoài sẽ trở về quê hương sau một vài năm nữa. Trước hết, thật phi thực tế khi nói rằng số lượng người nước ngoài sẽ thiếu 630.000 người vào năm 2030, 7 năm nữa kể từ bây giờ.

Người lao động nước ngoài nhìn nhận Nhật Bản như thế nào ?

ダウンロード - 2023-08-07T172558.045.jpg


“Người lao động nước ngoài không còn lựa chọn Nhật Bản nữa.” Nguyên nhân của điều này là sự trì trệ lâu dài của nền kinh tế Nhật Bản. Một trong những yếu tố lớn là số lượng các quốc gia ngoài Nhật Bản cần lao động nước ngoài ngày càng tăng.

Tỷ lệ sinh giảm và già hóa dân số cũng đang gia tăng ở Trung Quốc và Hàn Quốc. Ước tính của JICA và các tổ chức khác không tính đến tác động của việc tăng nhu cầu lao động nước ngoài tại các quốc gia này và nếu nhu cầu tăng ở các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn Nhật Bản, mức thiếu hụt vào năm 2040 sẽ là 420.000 người .

Yếu tố thứ hai là lao động nước ngoài đang từ bỏ Nhật Bản, nơi tiền lương bị kìm hãm và trì trệ trong thời gian dài. Đây là lý do nghiêm trọng hơn.

Báo cáo của JICA và các tổ chức khác dự đoán các nước như Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc sẽ giảm số nước đưa người đến Nhật Bản. Mặt khác, Việt Nam dự kiến sẽ có sự gia tăng lớn cho đến năm 2030, Myanmar và Campuchia sau năm 2030. Trong trường hợp các nước đang phát triển, nhiều người ra nước ngoài làm việc cho đến khi nền kinh tế của họ đạt đến một quy mô nhất định, nhưng các quốc gia đã gửi người lao động sang Nhật Bản đã có sự tăng trưởng kinh tế đáng chú ý. Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia nơi số lượng du khách đến Nhật Bản dự kiến sẽ tăng sau năm 2030 nhanh hơn dự kiến và mức lương ở nước họ tăng lên thì thậm chí sẽ có nhiều người ở lại Nhật Bản hơn.

Ngay cả khi làm việc ở nước ngoài, việc chọn quốc gia có mức lương cao hơn là điều đương nhiên. Triển vọng tăng số lượng lao động từ Việt Nam và các nước khác chưa chắc đã diễn ra như mong đợi ở Nhật Bản.

Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp cũng có quan ngại tương tự. Theo số liệu của Bộ, tính đến cuối năm 2020, có khoảng 70% thực tập sinh kỹ năng đến từ Việt Nam (55,2%), Indonesia (9,1%) và Philippines (8,4%). GDP bình quân đầu người của ba quốc gia này hiện vào khoảng 3.300 đến 3.900 USD, bằng khoảng 1/10 so với Nhật Bản, nhưng phân tích dự đoán rằng khi khoảng cách với Nhật Bản thu hẹp, số người đến Nhật Bản với tư cách thực tập sinh kỹ năng sẽ giảm.

Nhật Bản, nơi tiền lương chậm chạp sẽ dần mất đi sức hấp dẫn. “Nhật Bản giá rẻ” không chỉ khiến đời sống người dân khó khăn mà còn phải trả giá cho sự thất bại trong cuộc chiến giành lao động nước ngoài.

Đáp lại, chính phủ Nhật Bản đang xem xét mở rộng tình trạng cư trú và loại hình công việc cho phép người lao động nước ngoài làm việc trong thời gian dài, nhưng lý do “rời khỏi Nhật Bản” không phải là thời gian lưu trú của họ. Những biện pháp như vậy sẽ không có nhiều ý nghĩa.

Dư luận chia làm hai phe, trong đó nhiều người phản đối việc ở lại lâu dài của người lao động nước ngoài, cho rằng điều đó sẽ dẫn đến “sự nhập cư đáng kể”. Ngay cả khi được chấp nhận trên quy mô lớn, các biện pháp sẽ phải tăng lên hơn nữa. Tuy nhiên, do dân số trong độ tuổi lao động của Nhật Bản tiếp tục giảm mạnh, tốc độ của các biện pháp chống thiếu hụt lao động sẽ không theo kịp và có thể sẽ quá muộn.

Thay vì mở rộng việc tiếp nhận lao động nước ngoài, các công ty Trung Quốc hiện đang xây dựng nhà máy ở Nhật Bản và thuê công nhân Nhật Bản để tìm kiếm chi phí lao động thấp và phong cách làm việc lịch sự của công nhân Nhật Bản. Người ta nói rằng đó là một công việc tốt cho người già về hưu và những bà nội trợ bán thời gian.

Sẽ khá nguy hiểm nếu kỳ vọng quá nhiều vào người lao động nước ngoài đến Nhật Bản và dựa vào họ như nguồn nhân lực chính . Chúng ta phải suy nghĩ làm thế nào để các hoạt động của công ty hoạt động hiệu quả trên cơ sở thế hệ lao động sẽ giảm đi. Xem xét quy mô dân số trong độ tuổi lao động giảm, sẽ khôn ngoan hơn nếu cố gắng cải thiện năng suất lao động trên mỗi nhân viên.

( Nguồn tiếng Nhật )
 

Bài viết liên quan

ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
Your content here
Top