Kể từ năm 2017, giải thích trong các báo cáo của viện nghiên cứu và các nguồn khác bằng chứng rằng nguyên nhân chính khiến tỷ lệ sinh giảm về mặt thống kê của Nhật Bản là "những người chưa kết hôn", chứ không phải số lượng con cái của các cặp đôi.
Tuy nhiên, chính sách ưu tiên "biện pháp đối phó với tỷ lệ sinh thấp = hỗ trợ nuôi dạy con cái", dựa trên ý tưởng "hôn nhân phổ quát" của thời đại Showa và Heisei cho rằng "những người vợ đã ngừng sinh con", vẫn là chính sách chính thống (không giống như xã hội hôn nhân phổ quát của những năm 1960 và 1970, xã hội hôn nhân phổ quát được cho là sẽ tiếp tục mặc dù tỷ lệ chưa kết hôn đã tăng kể từ năm 1990, vì vậy tôi gọi đó là "hôn nhân phổ quát").
Thật không may, vì số lượng trẻ em sinh ra từ các cặp đôi lần đầu gần như không đổi trong hơn nửa thế kỷ, nên khả năng ý nghĩa thống kê sẽ tăng lên nếu chúng ta lặp lại điều tương tự nữa là rất thấp.
Tôi luôn nhấn mạnh rằng "sẽ không có sự ra đời nếu không có sự hình thành của các cặp đôi", và dù bạn nhân 0 bao nhiêu thì vẫn là 0. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người chưa hiểu hết được điều này, đây chính là rào cản trong việc giải quyết vấn đề tỷ lệ sinh thấp, và đây chính là tác hại do các giá trị do xã hội già hóa gây ra.
■ Những thay đổi lớn trong hôn nhân quốc tế tại Nhật Bản
Mặc dù số lượng người chưa kết hôn đang gia tăng, nhưng mong muốn kết hôn ở những người trẻ tuổi lại cực kỳ cao so với các cuộc khảo sát toàn quốc được thực hiện cách đây khoảng 30 năm. Như đã biết từ sự phổ biến của những người yêu thích thần tượng, người Nhật Bản dường như có khả năng yêu một ai đó hết lòng khá cao. Tuy nhiên, hình ảnh lý tưởng về một cặp đôi đã thay đổi rất nhiều giữa cha mẹ và con cái, đến nỗi hình ảnh về cặp đôi mà họ hướng tới sau khi yêu lại rất khác nhau giữa cha mẹ và con cái.
Nói một cách ngắn gọn, hình thức lý tưởng của một lời cầu hôn đã thay đổi đối với cả nam và nữ, từ "Em sẽ ở bên cạnh anh chứ?" thành "Em sẽ ủng hộ anh chứ?". Khi khoảng cách lớn về giá trị giữa cha mẹ và con cái xuất hiện trong nhiều dữ liệu khác nhau, một sự thay đổi đáng chú ý cũng đã xảy ra trên thị trường hôn nhân quốc tế vốn đã trì trệ trong một thời gian dài.
Năm 2019, trước khi COVID-19 lây lan, Tỉnh Aichi, Tokyo và Tỉnh Gifu đã kế thừa thứ hạng kéo dài từ vị trí thứ 1 đến thứ 3. Tỉnh Aichi và Tỉnh Gifu là căn cứ của Toyota và có nhiều công ty gia công phụ và nhà máy sản xuất liên quan. Đặc biệt, nhiều lao động nữ nước ngoài được tuyển dụng vào làm việc trên các dây chuyền sản xuất của nhà máy và có xu hướng có nhiều "vợ người nước ngoài" kết hôn với đàn ông Nhật Bản.
Ngay cả khi xem xét "tỷ lệ vợ người nước ngoài" trong số các cuộc hôn nhân quốc tế năm 2019, Tỉnh Aichi có tỷ lệ vợ nước ngoài cao hơn đáng kể ở mức 76,0% và Tỉnh Gifu có tỷ lệ vợ nước ngoài cao hơn đáng kể so với mức trung bình toàn quốc là 68,0%, ở mức 79,6%. Mặt khác, Tokyo, nơi xếp thứ hai về tỷ lệ kết hôn quốc tế năm 2019, có tỷ lệ vợ nước ngoài là 59,1%, khiến nơi đây trở thành khu vực có tỷ lệ kết hôn với chồng người nước ngoài nổi bật so với mức trung bình toàn quốc.
■ Những khu vực có tỷ lệ kết hôn quốc tế tăng
Tuy nhiên, khi phân tích số liệu thống kê về kết hôn năm 2023, là dữ liệu mới nhất tại thời điểm viết bài, Tỉnh Okinawa, đứng thứ sáu về tỷ lệ kết hôn quốc tế với 4,4% vào năm 2019, đã vượt qua ba khu vực có tỷ lệ kết hôn quốc tế cao nhất và dẫn đầu với 7,0%.
Xem xét chi tiết, đặc điểm của các cuộc hôn nhân quốc tế tại Tỉnh Okinawa luôn là tỷ lệ vợ nước ngoài thấp áp đảo. Năm 2019, tỷ lệ này là 27,4% và năm 2023, chỉ còn 18,2%. Nguyên nhân là do hôn nhân giữa đàn ông nước ngoài (chủ yếu là người Mỹ ) và phụ nữ Nhật Bản là xu hướng chính của các cuộc hôn nhân quốc tế tại Tỉnh Okinawa.
Những thế hệ trung niên và lớn tuổi hơn đã trải qua nền kinh tế bong bóng có xu hướng coi hôn nhân quốc tế ở Nhật Bản là "Japayuki-san" hay "vợ là người Philippines", trong đó một người phụ nữ từ một quốc gia có thứ hạng thấp được gọi là "vợ" ở Nhật Bản do sự chênh lệch kinh tế giữa Nhật Bản và nước ngoài. Tuy nhiên, Tỉnh Okinawa, nơi đứng đầu về tỷ lệ kết hôn quốc tế trong thời kỳ Reiwa (2023) và Tokyo, nơi đứng thứ hai, đều là những khu vực có tỷ lệ chồng là người nước ngoài cao trong số các tỉnh (Okinawa đứng đầu, Tokyo đứng thứ tư).
Cũng có thể nói rằng giá trị của sự đa dạng, tập trung vào "hai người hỗ trợ nhau về mặt kinh tế", là lý tưởng lý tưởng đối với hầu hết nam giới và phụ nữ trong thế hệ trẻ, đang bắt đầu xuất hiện trong cách nhìn nhận về hôn nhân quốc tế.
■ Những gì có thể thấy từ mối quan hệ với sự suy giảm trong hôn nhân
So sánh những thay đổi về số lượng hôn nhân ở Tỉnh Okinawa, Tokyo, Tỉnh Aichi và Tỉnh Gifu, xếp hạng nhất đến thứ tư và có tỷ lệ kết hôn quốc tế trên 5% vào năm 2023, trong giai đoạn 2019 và 2023, kết quả như sau.
Trong số bốn khu vực có tỷ lệ kết hôn quốc tế vượt quá 5%, Tỉnh Okinawa, nơi có tỷ lệ vợ nước ngoài cực kỳ thấp so với mức trung bình toàn quốc, đã chứng kiến sự gia tăng lớn về số lượng hôn nhân quốc tế và rõ ràng là điều này đang giữ mức giảm trong hôn nhân ở mức trung bình toàn quốc bằng cách bù đắp cho mức giảm trong hôn nhân giữa người Nhật Bản.
Ngoài ra, Tokyo (thứ 44 năm 2023), nơi có tỷ lệ vợ nước ngoài thấp hơn đáng kể so với mức trung bình toàn quốc, mặc dù không thấp bằng Tỉnh Okinawa, không chỉ có tổng số cuộc hôn nhân không giảm xuống dưới mức trung bình toàn quốc mà còn có mức giảm thấp nhất về số lượng cuộc hôn nhân trong cả nước. Thay vì bù đắp cho sự sụt giảm trong các cuộc hôn nhân bằng các cuộc hôn nhân quốc tế như ở Tỉnh Okinawa, tỷ lệ giảm của cả các cuộc hôn nhân quốc tế và hôn nhân giữa người Nhật Bản đều thấp, duy trì sự cân bằng trong tổng số các cuộc hôn nhân.
Mặt khác, ở Tỉnh Aichi và Tỉnh Gifu (thứ 18 năm 2023, Tỉnh Aichi, thứ 11 năm 2023), nơi có tỷ lệ vợ nước ngoài cao, các cuộc hôn nhân quốc tế đang giảm nhiều hơn mức trung bình toàn quốc, điều này cũng đang tác động tiêu cực đến sự sụt giảm trong tổng số các cuộc hôn nhân.
Từ những kết quả này, có thể chỉ ra rằng không dễ để bù đắp cho sự sụt giảm trong các cuộc hôn nhân bằng cách thúc đẩy các cuộc hôn nhân quốc tế dựa trên hình ảnh của các cuộc hôn nhân quốc tế trong quá khứ.
Ở Nhật Bản, tỷ lệ kết hôn quốc tế vẫn dưới 4%, nhưng nếu khối giá trị hôn nhân của "hôn nhân nam giới thống trị", vốn là cơ sở của hình ảnh "vợ là người ngoại quốc" thời Showa chưa được dỡ bỏ, chúng ta không thể mong đợi bất kỳ tác động nào của hôn nhân quốc tế đối với tổng số cuộc hôn nhân trong khu vực.
Như có thể thấy từ sự thay đổi trong bảng xếp hạng, trong thời đại Reiwa, khối giá trị hôn nhân của "hôn nhân nam giới thống trị" càng được dỡ bỏ thì tác động tích cực đến số lượng thực tế các cuộc hôn nhân quốc tế và tổng số cuộc hôn nhân càng lớn.
Cũng như mọi thứ khác, điều quan trọng là phải nắm bắt được xu hướng của thời đại và phản ứng phù hợp. Phải nắm vững hôn nhân hiện đại là gì và sau đó thực hiện bước tiếp theo để xóa bỏ những rào cản cản trở thiết kế cuộc sống mà "các cặp đôi thời Reiwa" mong muốn.
( Nguồn tiếng Nhật )
Tuy nhiên, chính sách ưu tiên "biện pháp đối phó với tỷ lệ sinh thấp = hỗ trợ nuôi dạy con cái", dựa trên ý tưởng "hôn nhân phổ quát" của thời đại Showa và Heisei cho rằng "những người vợ đã ngừng sinh con", vẫn là chính sách chính thống (không giống như xã hội hôn nhân phổ quát của những năm 1960 và 1970, xã hội hôn nhân phổ quát được cho là sẽ tiếp tục mặc dù tỷ lệ chưa kết hôn đã tăng kể từ năm 1990, vì vậy tôi gọi đó là "hôn nhân phổ quát").
Thật không may, vì số lượng trẻ em sinh ra từ các cặp đôi lần đầu gần như không đổi trong hơn nửa thế kỷ, nên khả năng ý nghĩa thống kê sẽ tăng lên nếu chúng ta lặp lại điều tương tự nữa là rất thấp.
Tôi luôn nhấn mạnh rằng "sẽ không có sự ra đời nếu không có sự hình thành của các cặp đôi", và dù bạn nhân 0 bao nhiêu thì vẫn là 0. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người chưa hiểu hết được điều này, đây chính là rào cản trong việc giải quyết vấn đề tỷ lệ sinh thấp, và đây chính là tác hại do các giá trị do xã hội già hóa gây ra.
■ Những thay đổi lớn trong hôn nhân quốc tế tại Nhật Bản
Mặc dù số lượng người chưa kết hôn đang gia tăng, nhưng mong muốn kết hôn ở những người trẻ tuổi lại cực kỳ cao so với các cuộc khảo sát toàn quốc được thực hiện cách đây khoảng 30 năm. Như đã biết từ sự phổ biến của những người yêu thích thần tượng, người Nhật Bản dường như có khả năng yêu một ai đó hết lòng khá cao. Tuy nhiên, hình ảnh lý tưởng về một cặp đôi đã thay đổi rất nhiều giữa cha mẹ và con cái, đến nỗi hình ảnh về cặp đôi mà họ hướng tới sau khi yêu lại rất khác nhau giữa cha mẹ và con cái.
Nói một cách ngắn gọn, hình thức lý tưởng của một lời cầu hôn đã thay đổi đối với cả nam và nữ, từ "Em sẽ ở bên cạnh anh chứ?" thành "Em sẽ ủng hộ anh chứ?". Khi khoảng cách lớn về giá trị giữa cha mẹ và con cái xuất hiện trong nhiều dữ liệu khác nhau, một sự thay đổi đáng chú ý cũng đã xảy ra trên thị trường hôn nhân quốc tế vốn đã trì trệ trong một thời gian dài.
Năm 2019, trước khi COVID-19 lây lan, Tỉnh Aichi, Tokyo và Tỉnh Gifu đã kế thừa thứ hạng kéo dài từ vị trí thứ 1 đến thứ 3. Tỉnh Aichi và Tỉnh Gifu là căn cứ của Toyota và có nhiều công ty gia công phụ và nhà máy sản xuất liên quan. Đặc biệt, nhiều lao động nữ nước ngoài được tuyển dụng vào làm việc trên các dây chuyền sản xuất của nhà máy và có xu hướng có nhiều "vợ người nước ngoài" kết hôn với đàn ông Nhật Bản.
Ngay cả khi xem xét "tỷ lệ vợ người nước ngoài" trong số các cuộc hôn nhân quốc tế năm 2019, Tỉnh Aichi có tỷ lệ vợ nước ngoài cao hơn đáng kể ở mức 76,0% và Tỉnh Gifu có tỷ lệ vợ nước ngoài cao hơn đáng kể so với mức trung bình toàn quốc là 68,0%, ở mức 79,6%. Mặt khác, Tokyo, nơi xếp thứ hai về tỷ lệ kết hôn quốc tế năm 2019, có tỷ lệ vợ nước ngoài là 59,1%, khiến nơi đây trở thành khu vực có tỷ lệ kết hôn với chồng người nước ngoài nổi bật so với mức trung bình toàn quốc.
■ Những khu vực có tỷ lệ kết hôn quốc tế tăng
Tuy nhiên, khi phân tích số liệu thống kê về kết hôn năm 2023, là dữ liệu mới nhất tại thời điểm viết bài, Tỉnh Okinawa, đứng thứ sáu về tỷ lệ kết hôn quốc tế với 4,4% vào năm 2019, đã vượt qua ba khu vực có tỷ lệ kết hôn quốc tế cao nhất và dẫn đầu với 7,0%.
Xem xét chi tiết, đặc điểm của các cuộc hôn nhân quốc tế tại Tỉnh Okinawa luôn là tỷ lệ vợ nước ngoài thấp áp đảo. Năm 2019, tỷ lệ này là 27,4% và năm 2023, chỉ còn 18,2%. Nguyên nhân là do hôn nhân giữa đàn ông nước ngoài (chủ yếu là người Mỹ ) và phụ nữ Nhật Bản là xu hướng chính của các cuộc hôn nhân quốc tế tại Tỉnh Okinawa.
Những thế hệ trung niên và lớn tuổi hơn đã trải qua nền kinh tế bong bóng có xu hướng coi hôn nhân quốc tế ở Nhật Bản là "Japayuki-san" hay "vợ là người Philippines", trong đó một người phụ nữ từ một quốc gia có thứ hạng thấp được gọi là "vợ" ở Nhật Bản do sự chênh lệch kinh tế giữa Nhật Bản và nước ngoài. Tuy nhiên, Tỉnh Okinawa, nơi đứng đầu về tỷ lệ kết hôn quốc tế trong thời kỳ Reiwa (2023) và Tokyo, nơi đứng thứ hai, đều là những khu vực có tỷ lệ chồng là người nước ngoài cao trong số các tỉnh (Okinawa đứng đầu, Tokyo đứng thứ tư).
Cũng có thể nói rằng giá trị của sự đa dạng, tập trung vào "hai người hỗ trợ nhau về mặt kinh tế", là lý tưởng lý tưởng đối với hầu hết nam giới và phụ nữ trong thế hệ trẻ, đang bắt đầu xuất hiện trong cách nhìn nhận về hôn nhân quốc tế.
■ Những gì có thể thấy từ mối quan hệ với sự suy giảm trong hôn nhân
So sánh những thay đổi về số lượng hôn nhân ở Tỉnh Okinawa, Tokyo, Tỉnh Aichi và Tỉnh Gifu, xếp hạng nhất đến thứ tư và có tỷ lệ kết hôn quốc tế trên 5% vào năm 2023, trong giai đoạn 2019 và 2023, kết quả như sau.
Trong số bốn khu vực có tỷ lệ kết hôn quốc tế vượt quá 5%, Tỉnh Okinawa, nơi có tỷ lệ vợ nước ngoài cực kỳ thấp so với mức trung bình toàn quốc, đã chứng kiến sự gia tăng lớn về số lượng hôn nhân quốc tế và rõ ràng là điều này đang giữ mức giảm trong hôn nhân ở mức trung bình toàn quốc bằng cách bù đắp cho mức giảm trong hôn nhân giữa người Nhật Bản.
Ngoài ra, Tokyo (thứ 44 năm 2023), nơi có tỷ lệ vợ nước ngoài thấp hơn đáng kể so với mức trung bình toàn quốc, mặc dù không thấp bằng Tỉnh Okinawa, không chỉ có tổng số cuộc hôn nhân không giảm xuống dưới mức trung bình toàn quốc mà còn có mức giảm thấp nhất về số lượng cuộc hôn nhân trong cả nước. Thay vì bù đắp cho sự sụt giảm trong các cuộc hôn nhân bằng các cuộc hôn nhân quốc tế như ở Tỉnh Okinawa, tỷ lệ giảm của cả các cuộc hôn nhân quốc tế và hôn nhân giữa người Nhật Bản đều thấp, duy trì sự cân bằng trong tổng số các cuộc hôn nhân.
Mặt khác, ở Tỉnh Aichi và Tỉnh Gifu (thứ 18 năm 2023, Tỉnh Aichi, thứ 11 năm 2023), nơi có tỷ lệ vợ nước ngoài cao, các cuộc hôn nhân quốc tế đang giảm nhiều hơn mức trung bình toàn quốc, điều này cũng đang tác động tiêu cực đến sự sụt giảm trong tổng số các cuộc hôn nhân.
Từ những kết quả này, có thể chỉ ra rằng không dễ để bù đắp cho sự sụt giảm trong các cuộc hôn nhân bằng cách thúc đẩy các cuộc hôn nhân quốc tế dựa trên hình ảnh của các cuộc hôn nhân quốc tế trong quá khứ.
Ở Nhật Bản, tỷ lệ kết hôn quốc tế vẫn dưới 4%, nhưng nếu khối giá trị hôn nhân của "hôn nhân nam giới thống trị", vốn là cơ sở của hình ảnh "vợ là người ngoại quốc" thời Showa chưa được dỡ bỏ, chúng ta không thể mong đợi bất kỳ tác động nào của hôn nhân quốc tế đối với tổng số cuộc hôn nhân trong khu vực.
Như có thể thấy từ sự thay đổi trong bảng xếp hạng, trong thời đại Reiwa, khối giá trị hôn nhân của "hôn nhân nam giới thống trị" càng được dỡ bỏ thì tác động tích cực đến số lượng thực tế các cuộc hôn nhân quốc tế và tổng số cuộc hôn nhân càng lớn.
Cũng như mọi thứ khác, điều quan trọng là phải nắm bắt được xu hướng của thời đại và phản ứng phù hợp. Phải nắm vững hôn nhân hiện đại là gì và sau đó thực hiện bước tiếp theo để xóa bỏ những rào cản cản trở thiết kế cuộc sống mà "các cặp đôi thời Reiwa" mong muốn.
( Nguồn tiếng Nhật )
Có thể bạn sẽ thích