Xu hướng về thuế tiêu dùng và mức thuế suất cũng như số tiền bảo hiểm xã hội là một chủ đề nóng, nhưng đây là về tiền bạc, thứ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của chúng ta. Để xem xét gánh nặng tài chính thực tế của các cá nhân và tổ chức đối với các quốc gia này và toàn xã hội, hãy cùng nhau phân tích chi tiết hơn về phần thuế và sử dụng các số liệu được công bố từ cơ sở dữ liệu OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế).
Theo phân tích tỷ lệ gánh nặng quốc gia dựa trên phân tích này, theo tỷ lệ phần trăm GDP và theo tỷ lệ phần trăm tổng GDP , mặc dù dữ liệu mới nhất thường là của năm 2022, nhưng đối với một số quốc gia (chẳng hạn như Úc), số liệu năm 2021 được sử dụng vì số liệu năm 2022 vẫn chưa được tính toán đầy đủ.
So sánh gánh nặng quốc gia của Nhật Bản với các quốc gia khác, có thể thấy tỷ lệ thuế tiêu dùng và thuế thu nhập cá nhân thấp, trong khi chi phí an sinh xã hội lại lớn. Thuế tài sản cũng đáng kể.
Ngoại trừ Chile, thuế suất tiêu dùng nhìn chung ở khu vực châu Âu khá cao. Điều này là do, như đã giải thích trong Xu hướng Thuế suất VAT Tiêu chuẩn ở Các Quốc gia Khác nhau, các chỉ thị của EU yêu cầu thuế suất VAT tiêu chuẩn phải từ 15% trở lên ở các quốc gia EU. Các quốc gia châu Âu thường có "chính phủ lớn", và con số này cũng có thể là một yêu cầu theo tính văn hóa.
Mặt khác, thuế tiêu dùng thường chiếm tỷ trọng thấp hơn trong tổng thuế ở các quốc gia ngoài châu Âu, bao gồm Mỹ và Canada. Thuế suất tiêu dùng của Nhật Bản đã đạt 10%, và như đã giải thích ở trên, ngay cả khi cộng thêm thuế thuốc lá và thuế ô tô, tỷ lệ này vẫn ở mức thấp trong khối OECD về cả tỷ trọng GDP và tỷ trọng gánh nặng thuế quốc gia.
So sánh với Mỹ , quốc gia có tỷ lệ thuế tiêu dùng tương đương với Nhật Bản, thuế suất thuế thu nhập cá nhân của Mỹ cao hơn gấp đôi Nhật Bản, trong khi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của nước này thấp hơn một nửa.
Mặt khác, tỷ lệ chi tiêu an sinh xã hội của Nhật Bản gần gấp đôi Mỹ. Tỷ lệ thành phần này cho thấy rõ gánh nặng thực tế mà người dân cả hai nước phải gánh chịu và sự khác biệt trong tính toán giữa các quốc gia có gánh nặng thuế tiêu dùng quốc gia thấp.
( Nguồn tiếng Nhật )
Theo phân tích tỷ lệ gánh nặng quốc gia dựa trên phân tích này, theo tỷ lệ phần trăm GDP và theo tỷ lệ phần trăm tổng GDP , mặc dù dữ liệu mới nhất thường là của năm 2022, nhưng đối với một số quốc gia (chẳng hạn như Úc), số liệu năm 2021 được sử dụng vì số liệu năm 2022 vẫn chưa được tính toán đầy đủ.
So sánh gánh nặng quốc gia của Nhật Bản với các quốc gia khác, có thể thấy tỷ lệ thuế tiêu dùng và thuế thu nhập cá nhân thấp, trong khi chi phí an sinh xã hội lại lớn. Thuế tài sản cũng đáng kể.
Ngoại trừ Chile, thuế suất tiêu dùng nhìn chung ở khu vực châu Âu khá cao. Điều này là do, như đã giải thích trong Xu hướng Thuế suất VAT Tiêu chuẩn ở Các Quốc gia Khác nhau, các chỉ thị của EU yêu cầu thuế suất VAT tiêu chuẩn phải từ 15% trở lên ở các quốc gia EU. Các quốc gia châu Âu thường có "chính phủ lớn", và con số này cũng có thể là một yêu cầu theo tính văn hóa.
Mặt khác, thuế tiêu dùng thường chiếm tỷ trọng thấp hơn trong tổng thuế ở các quốc gia ngoài châu Âu, bao gồm Mỹ và Canada. Thuế suất tiêu dùng của Nhật Bản đã đạt 10%, và như đã giải thích ở trên, ngay cả khi cộng thêm thuế thuốc lá và thuế ô tô, tỷ lệ này vẫn ở mức thấp trong khối OECD về cả tỷ trọng GDP và tỷ trọng gánh nặng thuế quốc gia.
So sánh với Mỹ , quốc gia có tỷ lệ thuế tiêu dùng tương đương với Nhật Bản, thuế suất thuế thu nhập cá nhân của Mỹ cao hơn gấp đôi Nhật Bản, trong khi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của nước này thấp hơn một nửa.
Mặt khác, tỷ lệ chi tiêu an sinh xã hội của Nhật Bản gần gấp đôi Mỹ. Tỷ lệ thành phần này cho thấy rõ gánh nặng thực tế mà người dân cả hai nước phải gánh chịu và sự khác biệt trong tính toán giữa các quốc gia có gánh nặng thuế tiêu dùng quốc gia thấp.
( Nguồn tiếng Nhật )
Có thể bạn sẽ thích