Giới thiệu các món ăn của Nhật - Sushi 寿司

Giới thiệu các món ăn của Nhật - Sushi 寿司

13075942_b65432944a.jpg


Sushi là một món ăn truyền thống của Nhật Bản được làm từ cơm kết hợp với hải sản tươi sống hoặc chín, với rau và với một số gia vị (nhất là wasabi nếu là sushi hải sản). Sushi có nguồn gốc từ phương pháp bảo quản cá bằng cách ủ vào trong cơm của khu vực Đông Nam Á.
Biển cả bao bọc bốn bề khiến ẩm thực của Nhật Bản là ẩm thực của hải sản. Sushi được người Nhật gìn giữ như một biểu tượng của văn hoá ẩm thực từ thế kỷ VIII trước Công Nguyên.

Một số thuật ngữ

Sushi viết bằng tiếng Nhật có nhiều cách: 寿司, 壽司, 鮨, 鮓, すし. Tuy nhiên, tất cả đều đọc là sư-si như trong tiếng Việt. Có thể có lúc đọc là dư-si nếu được kết hợp với từ khác. Nếu đọc theo âm Hán Việt thì là thọ ty.

Thứ cơm trộn dấm để làm sushi được gọi là sumeshi hoặc sushimeshi. Loại dấm để nấu thứ cơm này không phải là dấm thông thường mà là dấm có pha chút muối, đường, rượu ngọt mirin, vì thế gọi là dấm hỗn hợp awasesu. Dấm này chuyên dùng để chế biến sushi, nên còn được gọi là sushisu. Cơm nấu xong (nấu không chín hoàn toàn như cơm bình thường) được đổ ra một cái chậu gỗ gọi là tarai rồi trộn dấm vào. Vừa trộn vừa dùng quạt tay quạt cho hơi nóng thoát bớt ra để giữ hương vị của dấm.

Các loại hải sản dùng để làm sushi gọi là tane. Đó có thể là cá ngừ, cá hồng, cá trình, cá cóc, cá thu, tôm (nhất là thứ tôm mà người Nhật gọi là sakuraebi), mực, bạch tuộc, các loại ốc biển, cua biển, v.v...

Các loại sushi
Có nhiều loại sushi, tùy theo cách chế biến. Hiện tại có khoảng 150 loại.

* Loại thứ nhất là sushi nắm, gọi là nigirizushi. Cơm sumeshi được đắp lên bằng một một miếng tane. Ở giữa thường có một chút wasabi. Phía trên miếng tane có thể có một chút gừng xay nhuyễn hoặc vài hạt hành xanh thái nhỏ. Loại này phổ biến nhất.
* Loại thứ hai là sushi cuộn, gọi là makizushi được cuốn như các đồ ăn cuốn của Việt Nam, nhưng bên ngoài là lớp rong biển sấy khô.
* Loại thứ ba là sushi gói như bánh, gọi là oshisushi.
* Loại thứ tư là sushi lên men, gọi là narezushi. Sushi ủ trong một thời gian dài cho lên men.
* Loại thứ năm là sushi rán, gọi là inarizushi. Sushi tẩm xì dầu rồi rán trong dầu sôi.

Mỗi địa phương ở Nhật Bản lại có những nét riêng trong chế biến sushi. Có thứ sushi, nhưng không làm từ hải sản và cũng không có sumeshi, mà lại là trứng trộn đường rán lên. Có loại sushi cuộn mà bên trong có nato, thứ đậu tương ủ cho lên men nổi tiếng của Nhật Bản.


Sushi trên băng tải

141327401_0dfdaa6087.jpg


214918690_3264dc8944.jpg


Kaitensushi, hay sushi đặt trên băng chuyền chạy vòng tròn để thực khách tự chọn. Người Nhật thích kaitensushi vì giá cả thường rẻ. Người nước ngoài thích kaitensushi còn vì có thể lựa chọn được thứ mình thích mà không cần biết tiếng Nhật.
Ở VN cũng có vài cửa hàng kaitensushi như nhà hàng Triều Nhật, Asahi Sushi... tuy nhiên giá bán đắt hơn cả ở bên Nhật.



Chùm ảnh về sushi

111244700_c674e3fcdd.jpg


547140647_0127b0947e.jpg


29096429_5e2a68824a_o.jpg


(Sưu tầm)
 
Bình luận (3)

Tantrođiên

ngàn năm sông núi hữu tình.......
Sashimi

(tiếng Nhật: 刺身|さしみ có thể dịch ra tiếng Việt là "xẻo thân")
Là một món ăn Nhật Bản mà thành phần chính là các loại hải sản tươi sống cắt thành từng lát mỏng ăn cùng với các loại nước chấm như xì dầu, tương, các loại gia vị như wasabi, gừng, và một số loại rau nhất là bạc hà và củ cải trắng thái chỉ hoặc một số loại tảo biển. Cũng có thể nói sashimi là "cắt thịt tươi sống ra để ăn".

Một số loại hải sản mà người Nhật thường hay dùng làm sashimi là: cá hồi, cá ngừ, cá thu, cá saba, cá cóc, mực, bạch tuộc, tôm biển. Một số loại, chẳng hạn như bạch tuộc phải được hấp qua cho đỡ dai. Đôi khi, người Nhật còn dùng thịt ngựa, thịt gà, gan (tất nhiên đều tươi sống) và konyaku (một thứ thạch làm từ khoai) để làm sashimi. Lúc đó sẽ có các món basashi (sashimi thịt ngựa), torishashi (sashimi thịt gà), rebasashi (sashimi gan) hay konyakusashi (sashimi konyaku).
Một khay sashimi được xếp hình cầu kỳ trong một bữa ăn phục vụ tại một nhà nghỉ
Một khay sashimi được xếp hình cầu kỳ trong một bữa ăn phục vụ tại một nhà nghỉ

Cùng với sự thống trị của Nhật Bản ở bán đảo Triều Tiên và Đài Loan, sashimi cũng trở nên phổ biến ở các nơi này. Ở Hàn Quốc, sashimi được gọi là hoe.


39800497_e6f278cf99.jpg



115643246_f17f40e4d6.jpg

(Sưu tầm)
 

Tantrođiên

ngàn năm sông núi hữu tình.......
Onigiri - Cơm nắm

Onigiri.jpg


Onigiri (お握り) là cơm nắm của người Nhật. Nó thường có hình tam giác hoặc bầu dục và được phủ tảo biển (nori). Theo truyền thống, onigiri có chứa umeboshi (mơ muối), shake (cá hồi muối), katsuobushi hay các thành phần được muối hay chua khác. Onigiri vừa có tính cơ động, vừa tiện lợi trong việc bảo quản cơm.

Lịch sử

Các tài liệu viết vào khoảng những năm 1600 cho thấy nhiều samurai giữ cơm nắm bọc trong lá tre để dùng cho bữa trưa ăn nhanh vào lúc chiến tranh, nhưng nguồn gốc của onigiri có từ lâu trước đó. Trước khi việc dùng đũa phổ biến vào thời kì Nara, cơm được nắm thành nắm nhỏ để dễ cầm. Vào thời kì Heian, cơm cũng được nắn thành hình tứ giác nhỏ để dễ xếp chồng lên nhau trên đĩa và dễ ăn.

Từ thời kì Kamakura đến đầu thời kì Edo, onigiri được dùng trong bữa ăn nhanh. Điều này có ý nghĩa vì đầu bếp chỉ cần nghĩ làm thế nào để làm đủ onigiri mà không cần lưu tâm đến việc phục vụ. Onigiri lúc bấy giờ chỉ là nắm cơm có rắc muối. Việc thêm nori vào onigiri chỉ trở nên rộng rãi kể từ thời kì Meiji khi nori được trồng và làm thành tấm mỏng phổ biến.

Trước đây người ta cho rằng onigiri không thể được sản xuất với máy móc vì kĩ thuật nắn thành nắm quá khó để máy móc có thể thực hiện được. Vào những năm 1980, máy làm onigiri hình tam giác được chế tạo. Lúc đầu nó đã phải đương đầu với những người hoài nghi nhờ vào việc thay vì cuộn phủ thứ được thêm vào, thứ thêm vào này chỉ cần được đặt vào lỗ trong onigiri và lỗ này được nori che phủ. Thêm vào đó, onigiri làm bằng máy này luôn được bọc sẵn nori, và sau một thời gian nori trở nên ẩm và dính. Lối bao bọc đã được cách tân bằng cách cho phép nori được bọc riêng biệt với cơm. Vào lúc dùng, người ăn có thể mở gói nori và bọc lên onigiri. Việc thành phần thêm vào onigiri được lắp vào thay vì được cuộn bọc, vốn là một hạn chế, nhưng lại làm cho việc thay đổi thành phần được dễ dàng.

(Sưu tầm)​
 

Quan9889

New Member
Ðề: Giới thiệu các món ăn của Nhật - Sushi 寿司

ÔI EM CŨNG RẤT THÍCH CÁC MÓN ĂN NHẬT BẢN, LÂU LÂU CÓ TIỀN LẠI LÀM 1 BỮA, ĐẦU TIÊN THÌ EM ĐI TẬP AIKIDO, SAU ĐẦN CẢM THẤY YÊU MẾN ĐAATS NƯỚC NHẬT BẢN, THẾ LÀ TỰ NHIÊN THÍCH MÓN NHẬT TỪ BAO H CHẢ BIẾT, :bananen_smilies066: ĐỒ ĂN NHẬT KHÔNG NHỮNG NGON MÀ LẠI CÒN DINH DƯỠNG RẤT CAO, ĐỘ AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM QUÁ CHUẨN RỒI ^^
 

Bài viết liên quan

Văn hóa xã hội 0
ĐIỂM TIN NHẬT BẢN 0
Your content here
Top