Sửa lại toàn bài 1 chút :
大学に個性的学部名増える全入時代に生き残りをかける
Các trường Đại Học tăng số ngành học đặc thù để tồn tại trong khi số lượng người dự thi hiếm
平成8年の調査開始以降、12年と並び過去最低となった今春の大学新卒者の就職率。厳しい就職状況が続く中、学生を送り出す大学にも変化が表れている。「社会で役に立たない」というイメージを持たれやすい「文学部」などの名称をやめ、資格を取りやすい「看護」「教育」などの名称や、はやりのキーワードを取り入れた学部が増えている。こうした個性的な学部名は、大学全入時代に生き残りをかける大学側の意気込みの表れでもある。(道丸摩耶)
Kể từ khi cuộc điều tra bắt đầu vào năm 1996, tỷ lệ có việc làm của sinh viên mới ra trường trong Mùa xuân này ở mức thấp kỷ lục bằng với năm 2000. Trong bối cảnh tình hình việc làm khó khăn thì số học sinh dự bị ở trường Đại học cũng có những biểu hiện thay đổi rõ. Những ngành học mang tên "Khoa văn học" dễ gây ấn tượng là "Không có ích trong Xã hội" đã bị loại bỏ và những ngành học dễ lấy bằng cấp gắn với những từ khóa đang lưu hành như "Chăm sóc bệnh nhân (Hộ lý)", "Giáo dục", vvv lại đang tăng lên. Và tên các nghành học đặc thù kiểu như thế này có dấu hiệu của sự hăng hái, nhiệt tình bên phía trường Đại học để mong tồn tại trong thời kỳ hiếm người dự thi. (theo lời ông Maya Michimaru)
今年2月、大学の入試問題がインターネットに投稿された事件で、逮捕された予備校生の受験先の一つだったのが早大文化構想学部。大学名は知っていても、学部名になじみのない人も多かったに違いない。
Khoa Văn hóa sáng kiến của trường ĐH Waseda là 1 một những nơi tổ chức thi tuyển cho các thí sinh dự bị đã bị hoãn lại với lí do là đề thi đầu vào của trường đã bị đăng trên mạng internet hồi tháng 2 năm nay. Mặc dù biết tên trường Đại học nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều người không hề biết đến tên khoa.
最近、こうした「聞いたことのない学部」が全国の大学で増えている。
Gần đây, những cái tên "Khoa chưa từng nghe bao giờ" kiểu như thế này đang tăng lên trong các trường Đại học khắp cả nước.
平成21、22年度の新設学部の一部をみても、「メディアプロデュース学部」「社会安全学部」「サービス創造学部」など聞いたことのない名称が並ぶ。従来の「文学部」「経済学部」などより細分化され、カタカナや、はやりのキーワードをつなげて横断的なイメージを持たせた名称が多い。
Nhìn qua một phần của các khoa được thành lập mới trong năm 2009, 2010 cũng đã có hàng loạt những tên khoa chưa từng nghe đến như "Khoa Truyền Thông Giải Trí", "Khoa An Toàn Xã Hội", "Khoa Dịch Vụ Sáng Chế", vvv. Các khoa như "Khoa Văn Học", "Khoa Kinh Tế" trong tương lai sẽ bị phân nhỏ ra và nhiều tên khoa đã được gắn thêm các từ khóa thịnh hành gây ấn tượng đa chiều bằng kiểu chữ Katakana.
こうした傾向を、「全国の大学の総定員より18歳の方が少ない少子化時代に、大学がどうやって受験生を集めるかを真剣に考え始めた結果」と分析するのは、『文学部がなくなる日』(主婦の友新書、820円)などの著作がある「早稲田塾SOHKEN(総合研究所)」の倉部史記(しき)主任研究員だ。
Nhà nghiên cứu chính của trường Waseda juku SOHKEN (Viện nghiên cứu tổng hợp) ông Kurabe Shiki, tác giả của cuốn 『Ngày khoa Văn Học không còn 』(Sách mới- bạn của những bà nội trợ, giá 820 yên)đã phân tích xu hướng như sau: "Kết quả cho thấy các trường Đại học đã bắt đầu suy nghĩ một cách nghiêm túc là làm thế nào để có thể tập trung được số người dự thi ở độ tuổi 18 lại trong cái thời mà tổng sức chứa của các trường Đại học trên toàn quốc đang dư thừa trầm trọng"
倉部氏によると、「マネジメント」「グローバル」「コミュニケーション」など高校生にイメージしやすく、流行のキーワードを取り入れた学部が増えてきたという。
Theo như ông Kurabe thì nghe nói các khoa gắn với những từ khóa thịnh hành như "Điều hành", "Toàn cầu", "Thông tin" sẽ rất dễ gây ấn tượng với các em học sinh trung học.
学部名は、多様化する現代社会を象徴してもいる。
Tên khoa cũng biểu hiện cho xã hội hiện đại đa dạng hóa.
「理系の大学でも、マーケティングを知らない技術者は世界に出られない。必要とされる学問の範囲が増えている」(倉部氏)
Ông Kurabe nói thêm: "Cho dù là Đại học khoa học tự nhiên thì những Kỹ thuật viên không biết tiếp thị (Maketting) cũng không thể tồn tại được trên thế giới này. Phạm vi học vấn được xem là cần thiết đang tăng lên."
世相を反映し、「IT社会」といわれ始めると「情報」を取り入れる学部が増加。看護師不足が叫ばれる昨今は、看護系の学部を新設する大学が多いという。
Nếu bắt đầu nói về "Xã hội CNTT" phản ánh xu thế của xã hội thì những khoa áp dụng từ "Thông tin" đang gia tăng. Và nghe nói nhiều trường Đại học sẽ mở thêm ngành học mới liên quan đến chăm sóc sức khỏe mà gần đây được cho là đang thiếu hụt nhân lực.
倉部氏によると、学部新設の先駆けとなったのが、慶応大が平成2年に湘南藤沢キャンパス(SFC、神奈川県藤沢市)に開設した総合政策学部と環境情報学部。翌年には文部省(当時)の規制緩和で、文学士、理学士など29種に限定されていた「学士」の制限がなくなったことも学部新設の動きを加速させた。現在では、500種を超える学士があるという。
Theo ông Kurabe thì khoa Thông tin môi trường và khoa chính sách tổng hợp của trường Đại học Keio thành lập năm vào năm 1990 tại trường Keio Shonan Fujisawa Campus(SFC、Tỉnh Kanagawa, thành phố Fujisawai) đã trở thành những khoa tiên phong của việc thành lập khoa mới. Những năm tiếp theo, bằng sự nới lỏng về quy chế của Bộ Giáo Dục (thời đó) đã thúc đẩy sự chuyển động của các khoa mới thành lập mà không hạn chế về "Bằng cấp" đã được giới hạn trong 29 loại văn bằng như "Cử nhân văn học" hay "Cử nhân khoa học tự nhiên". Và nghe nói hiện tại đã có hơn 500 loại bằng cấp.
だが、学部が増えて選択肢が広がり、悩む受験生は多い。また、厳しい就職状況を反映し、「就職に有利」との理由で学部を選ぶケースも増えている。
Tuy nhiên, việc các ngành học tăng lên, sự lựa chọn cũng rộng hơn và thí sinh dự thi cũng buồn phiền, lo lắng nhiều hơn. Thêm nữa, việc chọn ngành học với lí do là "có lợi cho sự tìm việc làm sau này" tăng lên cũng phản ánh tình trạng việc làm khó khăn.
同研究所の赤坂俊輔氏は「学部名が何かしてくれるわけではない。昔は偏差値が高いところを目指せば間違いなかったが、今は世の中の価値基準が多様化している。問われているのは自分で道を開こうという気概だ」と指摘する。AO入試(面接や論文などで合否を判断する方式)や推薦入試など試験方法も多様化する中、偏差値が高い学部がいいとは限らない。
Ông Akasaka Shiyunsuke cùng trong Viện nghiên cứu tổng hợp cho biết : "Tên khoa nó không làm cho ta một điều gì cả. Ngày xưa nếu nhắm đến nơi có điểm chuẩn cao là sai lầm nhưng ngày nay, tiêu chuẩn giá trị trong xã hội đang đa dạng hóa. Vấn đề đòi hởi ở đây là bản thân phải vươn lên tự mở ra con đường đi cho mình". Trong khi sự đa dạng hóa kể cả phương pháp thi như thi đầu vào AO (là hình thức thi đánh giá việc đậu hay không đậu qua vòng thi phỏng vấn và làm luận văn) hay thi đầu vào bằng cách tuyển chọn những sinh viên được tiến cử từ các trường cũ thì các khoa có điểm chênh lệch cao chưa chắc gì đã tốt.
倉部氏は、「人生経験豊富な周囲の大人が、多様な価値観や豊富な知識を生かし、受験生の進路選びにかかわってほしい」とアドバイスしている。
Ông Kurabe có lời khuyên rằng : "Những người trưởng thành xung quanh chúng ta có rất nhiều những trải nghiệm quý giá trong cuộc đời họ, tôi muốn các bạn hãy nhìn nhận, đánh giá nhiều mặt và tận dụng sự hiểu biết phong phú để chọn lựa lộ trình thi cho mình." %