Truman và quyết định đánh bom nguyên tử Nhật
Ngày 6/8/1945, thành phố Hiroshima hứng chịu thảm hoạ khủng khiếp nhất trong lịch sử: bom nguyên tử. 3 ngày sau đó (9/8/1945), đến lượt Nagasaki. Tác giả của kế hoạch này chính là Harry S. Truman. Làm thế nào vị Tổng thống thứ 33 của Mỹ lại đi đến quyết định "vô tiền khoáng hậu" như vậy?
Đài tưởng niệm nạn nhân Hiroshima.
Trong suy tính của Truman, có hai lý do chính để sử dụng loại vũ khí huỷ diệt "mới mẻ" này.
Thứ nhất là cách quân đội Nhật đã tiến hành Thế chiến II. Sự tàn khốc của chiến tranh đã khởi đầu ở Trung Quốc từ năm 1937. Cũng trong năm này, quân đội Nhật chiếm đóng Nam Kinh, gây ra những tổn thất to lớn về người (khoảng 100.000 - 200.000 người đã bị sát hại dưới bàn tay quân Nhật).
Hai quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật Bản ngày 6/8 và 9/8 làm ít nhất 120.000 người chết ngay lập tức và hơn 200.000 người thiệt mạng những năm sau đó. Các chuyên gia quân sự lúc đầu ước tính sức công phá của quả bom ném xuống Hiroshima tương đương với 20.000 tấn thuốc nổ TNT. Về sau, các quan chức Mỹ xác nhận, nó tương đương với 3.000 tấn TNT.
Thứ hai là vụ tấn công không báo trước của các máy bay cảm tử Nhật nhằm vào Trân Châu Cảng khiến 1.000 quân nhân Mỹ trên chiếc tàu chiến U.S.S Arizona thiệt mạng và gần 1.500 người trên các tàu khác đậu trong cảng, sân bay lân cận và cả thường dân cũng bỏ mạng.
Tuy nhiên, đây không phải là ví dụ duy nhất về sự tàn khốc của quân phiệt Nhật mà người Mỹ chứng kiến. Tiếp sau Trân Châu cảng là cuộc "diễu hành" chết chóc Bataan ngày 9/4/1942 trong đó 72.000 người Philippines và người Mỹ bảo vệ bán đảo Bataan đã thực hiện hành trình dài 80km trong 4 ngày mà không hề có thực phẩm và nước dưới làn mưa đạn của binh lính Nhật. Thêm vào đó, điều kiện tại các nhà tù Nhật vô cùng khắc nghiệt đối với các tù binh quân sự và thường dân. Rất nhiều cảnh bắn giết, chặt đầu diễn ra cho tới tận cuối Thế chiến II. Trên tất cả là cách lính Nhật đối xử với các tù nhân Mỹ, rồi đến tù nhân Anh, và nhiều tù nhân thuộc phe Đồng minh bị Nhật bắt trong những tháng đầu của cuộc chiến tại Hongkong, Singapore, Myanmar...
Ngoài các nguyên nhân trên, còn có một lý do giải thích tại sao Truman và các quan chức hàng đầu trong chính quyền Mỹ thời bấy giờ đi tới quyết định sử dụng bom A, đó là cái giá mà quân đội Mỹ phải trả nếu tấn công vào các hòn đảo thuộc chủ quyền của Nhật. Hai ví dụ chính có thể coi là cái giá phải trả cho việc tấn công vào lãnh thổ Nhật chính là vụ tấn công Iwo Jima và Okinawa mùa xuân, đầu mùa hè năm 1945.
Quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki tạo ra một cột khói khổng lồ cao 18km.
Vụ tấn công Iwo Jima đã gây ra những tổn thất nghiêm trọng về người: 6.200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đã bỏ mang trên hòn đảo nhỏ bé này - nơi được coi là vô cùng giá trị vì nó chính là căn cứ không quân của các máy bay B-29 tham gia đánh bom Nhật. Nhiều máy bay ném bom không thể tháo chạy hay quay trở về Mỹ do gặp máy bay tiêm kích hoặc gặp sự cố kỹ thuật có thể hạ cánh xuống hòn đảo này. Trong trận này, ưu thế của Mỹ so với quân Nhật là 4:1.
Vụ tấn công hòn đảo Okinawa rộng lớn còn đem lại những tổn thất nặng nề gấp 2 lần vụ Iwo Jima - 13.000 người thiệt mạng, 1/3 số này bỏ mạng trên tàu trước các cuộc tấn công của Phi đội Thần phong Nhật. Phi công trên những máy bay lỗi thời này thường không có khả năng quay trở lại căn cứ, đã biến máy bay của họ thành bom và chấp nhận hy sinh. Chỉ riêng một vụ tấn công của phi đội Thần Phong nhằm vào tàu chiến U.S.S Franklin, Mỹ đã mất 1.000 binh sĩ và chiếc chiến hạm biến thành một đống lửa khổng lồ.
"Năm 1945, Bộ trưởng Chiến Tranh Stimson khi ghé thăm tổng hành dinh của tôi tại Đức, đã thông báo rằng chính phủ chuẩn bị ném một quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản. Tôi là một trong số những người cảm thấy có nhiều lý do để nghi ngờ về tính "sáng suốt" của quyết định này. Trong buổi nói chuyện với Stimson, tôi bắt đầu nhận thức rõ cảm giác chán chường, tuyệt vọng vì thế tôi nói với ông ấy về sự bất đồng của mình dựa trên niềm tin rằng Nhật lúc ấy đã thất bại và việc ném bom nguyên tử là hoàn toàn không cần thiết. Hơn nữa tôi cho rằng Mỹ nên tránh làm dư luận thế giới bị sốc vì sử dụng loại vũ khí theo tôi là không phải là phương tiện để cứu mạng người dân Mỹ..." - trích hồi ký "Những năm tháng ở Nhà Trắng" của cựu Tổng thống Mỹ Eisenhower.
Trong khi đó, lính thuỷ đánh bộ và bộ binh Mỹ tại Okinawa vẫn tiếp tục chiến đấu trên hòn đảo. Con số bị thương, bị mất tích chiếm 35% lực lượng tham chiến. Cho tới giữa tháng 6/1945, câu hỏi lớn trong đầu các chỉ huy Mỹ cũng như quan chức thuộc chính quyền Truman là liệu Mỹ có thể buộc chính phủ và quân đội Nhật đầu hàng hay không. Rõ ràng, dù bị tấn công mạnh mẽ, quân đội Nhật không có dấu hiệu sẽ hàng. Nếu như các lãnh đạo dân sự Nhật hay thậm chí người dân Nhật có quyền đưa ra quyết định, có lẽ cuộc chiến sẽ nhanh chóng đi tới hồi kết. Nhưng thật không may mắn, nó thuộc thẩm quyền của quân đội, cụ thể là các chỉ huy Nhật.
Và những người đứng đầu quân đội Nhật đã quyết định tiếp tục chiến tranh, bất chấp tổn thất để bảo vệ cái gọi là "tinh thần võ sĩ đạo". Giới chức chỉ huy không quan tâm tới thực tế cuộc chiến ấy sẽ được tiến hành với những vũ khí hiện đại của thế kỷ 20, mà không phải những cuộc đấu giáp lá cà giữa binh sĩ. Họ ra lệnh cho binh sĩ chiến đấu bằng mọi vũ khí có được trong tay.
Tới giữa tháng 6, các chỉ huy quân sự Mỹ bắt đầu lo ngại binh sĩ của họ sẽ phải đối phó với cái gì. Một uỷ ban kế hoạch chiến tranh phối hợp giữa Lục quân và Hải quân đưa ra ước tính: nếu Mỹ tấn công Kyushu ở cả hai mặt trận, họ sẽ chịu tổn thất 25.000 người; nếu tấn công trên 1 mặt trận và sau đó tấn công vào Honshu, họ sẽ mất 40.000 người; nếu tấn công cả hai mặt trận ở Kyushu và sau đó tấn công tiếp Honshu, họ sẽ mất 46.000 người. Tuy nhiên, tất cả những con số này chỉ là ước lượng do đó Tham mưu trưởng quân đội Mỹ - Tướng George C. Marshall đã không thảo luận hay thậm chí đề cập tới tại cuộc họp Nhà Trắng ngày 18/6/1945. Thay vì vậy, Marshall chỉ nói rằng ông nghĩ một cuộc tấn công vào lãnh thổ Nhật có thể không gây ra nhiều tổn thất hơn vụ tấn công hòn đảo Luzon, Philippines trong đó 31.000 người thương vong.
Hiroshima tan hoang sau vụ ném bom nguyên tử.
Nhưng tại cuộc họp này, Tham mưu của Tổng thống Truman là Đô đốc William D. Leahy đã nêu ra con số thương vong có thể có nếu tấn công vào Kyushy và Honshu - gần bằng số thương vong tại Okinawa. Ngay lập tức, Tổng thống đã bày tỏ về "sự lo ngại" của mình trước khả năng con số thương lớn đến vậy.
Cũng còn một con số khác được các nhà quân sự Mỹ tính tới: đó là sức mạnh của quân đội Nhật tại Kyushu. Khi tấn công Iwo Jima và Okinawa, Mỹ luôn chiếm ưu thế. Giữa tháng 6/1945, Tướng Marshall đã ước tính có khoảng 350.000 lính Nhật tại Kyushu. Nhưng đến ngày 24/6, ông nói con số là 500.000 và đến ngày 6/8 thì là 560.000. Những con số này được đưa ra dựa trên các dữ liệu thu được từ việc do thám hệ thống radio của Nhật còn gọi là Ultra. Nhưng một điều ông không hề biết là con số thực của binh sĩ Nhật tại Kyushu tính đến ngày 6/8 là 900.000 quân. Việc tấn công Kyushu đã được dự tính vào ngày 1/11 và đến thời điểm đó, quân Nhật sẽ tăng lên trên 1 triệu. Điều này có nghĩa, Mỹ sẽ bị tổn thất nặng nề.
Toà nhà còn may mắn "sống sót" sau thảm hoạ Hiroshima.
Ngoài ra, nguy cơ các vụ tấn công của phi đội Thần phong có lẽ sẽ nghiêm trọng hơn rất nhiều so với vụ Okinawa. Trong vụ Okinawa, các phi đội Thần phong Nhật đã phải bay từ Kyushu tới Okinawa, nhưng lần này họ sẽ không phải bay xa trước khi gặp mục tiêu.
Dựa vào tất cả những tính toán này, đội ngũ quan chức Mỹ, từ Truman trở xuống tất nhiên chỉ nghĩ tới việc làm sao bảo toàn mạng sống cho binh lính Mỹ trong thời điểm quan trọng của mùa hè năm 1945 này. Và Bom Nguyên tử chính là giải pháp.
(Tổng hợp)