Murakami Haruki.
Từ điển bách khoa Columbia 2001, ghi rằng Murakami Haruki “là một trong những tiểu thuyết gia thế kỷ 20 quan trọng nhất của Nhật Bản”. Đề cập đến thời đại lắm bão tố hiện nay, Matsuda Tetsuo của nhật báo Yomiuri có số in lớn nhất ở Nhật, viết: “Trong bất cứ trận bão lớn nào cũng có những nhà văn giương cao ngọn đèn soi cho quần chúng. Murakami Haruki đang và sẽ lãnh vai trò đó”. Báo The Guardian viết: “Không có nhiều tác giả cùng thời mà tác phẩm lôi cuốn được giới độc giả trẻ trực tiếp đến như thế, không chỉ trong nước ông mà còn trên khắp thế giới”.
Murakami Haruki sinh năm 1949 ở cố đô Kyoto, lớn lên ở Kobe. Thân phụ dạy văn học Nhật Bản ở cấp trung học và đã gặp thân mẫu ông trong lúc cùng dạy môn ấy. Ngay từ thuở nhỏ, Murakami Haruki đã có khuynh hướng phản kháng đối với văn hóa truyền thống. Ông tìm đọc mê mải tác phẩm của những tác giả Âu châu thế kỷ 19. Sau đó, ông học tiếng Anh, và đọc nguyên tác Truman Capote, Kurt Vonnegut… Ông ham mê nhạc Âu Mỹ: Elvis, Beatles, Beach Boys, nhạc Jazz. Thế giới mới đó quyến rũ ông đến nỗi không bao lâu sau khi kết hôn với bạn đồng học Takahashi Yôko, năm 1971, ông ngưng việc học ở Đại học Waseda, cùng vợ mở một quán rượu nhạc Jazz ở Tokyo. Song thân ông rất thất vọng về việc ông lấy vợ sớm và quay lưng lại với đời công chức vẫn được xem là an định, thậm chí lý tưởng trong xã hội Nhật lúc bấy giờ đang phát triển mạnh.
Ông chỉ bắt đầu viết từ 1978. Khi đang xem một trận bóng chày, ý nghĩ viết văn chợt đến với ông, như một tiếng gọi siêu hình, ông cho đó là sự kiện hạnh phúc nhất của đời ông. Tác phẩm đầu tay của ông, Lắng nghe gió hát (KazeNo UtaO Kike, Hear the Wind Sing) xuất bản năm 1979, kể lại thời sinh viên tranh đấu phản kháng mà ông đã tham gia với một ít hoài nghi, được giải thưởng "Tác giả Mới - Gunzô" ngay năm đó.
Tiếp tục thành công với 2 tác phẩm sau đó và một số các truyện ngắn, ông bán quán Jazz và trở thành tác giả toàn thời gian. Ông cũng bắt đầu việc dịch Raymond Carver, Truman Capote, F. Scott Fitzerald…
Phong cách Murakami Haruki định hình từ tác phẩm thứ 3 là Cuộc phiêu lưu theo con cừu (HitsujiO Meguru Bôken, A Wild Sheep Chase) xuất bản năm 1982, giải thưởng “Tác giả Mới – Noma” trong năm, pha trộn những chi tiết trinh thám đen với những ảo giác và bí mật siêu hình. Nhân vật của ông chủ trương những giá trị quan khác lạ với truyền thống xã hội Nhật, và ham mê âm nhạc, phim ảnh Âu Mỹ. Đặc điểm đó hấp dẫn tâm tình giới trẻ Nhật Bản đang muốn cởi bỏ những trói buộc của văn hóa truyền thống.
Dị ứng với lối sống đua đòi vật chất trong một nền kinh tế hãnh tiến, vợ chồng ông rời Nhật sang sống ở Ý năm 1986. Ở Rome, ông viết Rừng Na Uy (NoruueiNo Mori, Norwegian Wood), tác phẩm đã đưa ông lên địa vị “siêu sao” trong văn học Nhật Bản. Những ký ức hoài niệm trong tuổi đang lớn chen lẫn với ý thức về tính cách nhất thời của đời sống, ý thức về sự không thể tránh được của những mất mát, là đề tài của tác phẩm, đặt trong bối cảnh thời sinh viên tranh đấu phản kháng cùng lúc với bình minh của phong trào tự do tình dục những năm cuối thập niên 60 và đầu 70. Rừng Na Uy trở thành một phong trào, được tận dụng trong giới quảng cáo, từ bánh kẹo cho đến vật dụng trong nhà; các nhà sản xuất xin làm phim… Ngay trong năm đầu tiên, Rừng Na Uy đã bán được 1 triệu bản.
Sống ở Âu châu, ông vẫn băn khoăn về mục đích của đời sống của ông, một tác giả Nhật. Hai vợ chồng lại quay về Nhật năm 1990, cao điểm của thời kinh tế bọt. Năm sau, ông lại khoác áo ra đi, lần này sang Mỹ làm giáo sư thỉnh giảng của Đại học Princeton 2 năm, rồi 2 năm tiếp theo làm tác giả thường trú (Writer-In-Residence) ở Đại học Tuft, Massachusetts.
Tháng Giêng năm 1995, xảy ra thảm kịch động đất ở Kobe; 2 tháng sau, lại xảy ra vụ tín đồ Chân lý giáo Aum thả hơi độc sarin trong tàu điện ngầm ở Tokyo. Hai thảm kịch này đánh dấu sự chuyển biến từ căn bản của xã hội Nhật: Ý thức an định do an toàn xã hội từ lâu nay vẫn là một biểu hiện tính ưu việt của truyền thống văn hóa Nhật Bản, được tăng cảm nhờ tình trạng không ngừng phát triển của kinh tế bọt, bỗng một sớm một chiều bị thách thức mãnh liệt đến độ sụp đổ theo những tòa nhà Kobe trong cơn động đất. Không lâu sau đó, kinh tế bọt Nhật Bản cũng vỡ tan.
Hai cơn sốc liên tiếp này đã đưa ông trở về Nhật. Tuyển tập truyện ngắn Sau cơn động đất (JishinNo AtoDe, After The Quake) có những nhân vật chính, do ảnh hưởng gián tiếp xa xôi của trận động đất Kobe, đã cảm nhận sâu sắc sự trống rỗng của chính mình, mất niềm tin vào sự an định của đời sống gia đình. Tập Mạch ngầm (Andaguraundo, Underground) ghi những cuộc phỏng vấn trực tiếp tín đồ Chân lý giáo Aum cùng những nạn nhân, cho thấy tâm tình phản kháng đối với những giá trị quan tôn thờ vật chất, cố gắng tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời từ những giải thuyết siêu hình, có khi cực đoan đến nỗi trở thành tội ác.
Những nhân vật chính của Murakami Haruki không những chỉ hấp dẫn giới trẻ Nhật Bản, mà còn cộng hưởng với tâm tình giới trẻ Âu Mỹ vì những nét quen thuộc trong lối sống, thị hiếu mới; và chia sẻ với giới trẻ các nước chậm tiến hơn, lòng ngưỡng mộ hay ước vọng về lối sống Âu Mỹ. Rất nhiều tác phẩm của ông đã được dịch và hâm mộ ở Mỹ, Anh, Nga, Đức, Hàn Quốc, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Hà Lan, Phần Lan, Đan Mạch, Áo, Canada, Israel, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan. Tiếng tăm của ông ở nước ngoài cộng với địa vị “siêu sao” trong nước Nhật, đã làm tăng khoảng cách đối với dòng văn học truyền thống Nhật Bản vốn vẫn nghi ngờ ý đồ có vẻ tạo loạn của ông. Nhà văn Oe Kenzaburo, giải Nobel Văn chương 1994, công kích Murakami Haruki và chê ông là “hôi mùi bơ” (batakusai) vì hay dẫn dụ những chi tiết văn hóa Âu Mỹ.
Murakami Haruki không thích sự săn đón của giới truyền thông, ông ít khi chịu phỏng vấn. Giống như giới trẻ hiện đại, thành phần độc giả chủ yếu của ông, Murakami Haruki thoải mái với quần bò, áo thun, giày thể thao, ham thích các hoạt động tăng tiến thể lực, tham gia nhiệt tình các kỳ chạy việt dã mỗi năm trong suốt 20 năm qua. Ngày nay, ở tuổi 54, ông vẫn còn chạy 10 km mỗi ngày và chuyên niệm vào việc viết sách. Tác phẩm trường thiên mới nhất của ông, Kafka bên bờ biển (UmibeNo Kafuka, Kafka On The Shore) do nhà Shinchô xuất bản tháng 9 năm 2002 đã bán hết 460 ngàn cuốn trong vòng 2 tháng đầu.
Phạm Vũ Thịnh
Sydney 12/2003
Có thể bạn sẽ thích