Tỷ lệ lao động bỏ trốn có lúc lên đến 45% ở một số thị trường trọng điểm như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản đang là nguy cơ mất trắng thị trường xuất khẩu lao động đối với Việt Nam. Theo ông Nguyễn Thanh Hòa, cục trưởng Cục quản lý lao động nước ngoài, đã đến lúc phải mạnh tay ngăn chặn tình trạng này.
Nhiều ý kiến cho rằng, giải pháp duy nhất để chấm dứt tình trạng lao động bỏ trốn là phải nâng cao hình phạt, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự. Được biết Bộ Lao động Thương binh Xã hội đang gấp rút soạn thảo Nghị định xử lý lao động bỏ trốn theo hướng này?
Trong tình hình hiện nay, tôi thấy một biện pháp rất quan trọng là phải có một chế tài đủ mạnh để răn đe, giáo dục người lao động. Mấy tháng nay chúng tôi đang triển khai làm đề án này. Rất nhiều phương án đưa ra. Lần họp gần đây nhất giữa các cơ quan liên quan, thấy rằng việc phạt hành chính, đưa vào cơ sở giáo dục cũng chưa ổn. Phạt kinh tế rất nặng, sau đó đưa vào quản lý giáo dục tập trung một thời gian cũng là một phương án. Thậm chí, chúng tôi tìm thấy trong Luật Hình sự có một điều mà mình có thể vận dụng. Tóm lại, đã đến lúc cần có một biện pháp mạnh bảo đảm giáo dục nhưng cũng phải bảo đảm răn đe.
Mục đích là răn đe chứ không phải chỉ xử phạt người lao động. Nếu người lao động thấy biện pháp như vậy là mạnh mẽ, họ sẽ cân nhắc giữa hiệu quả của lợi ích kinh tế của bản thân với biện pháp xử lý. Người lao động thấy về nước là tốt hơn thì họ sẽ lựa chọn phương án đó.
Tuy nhiên, nói đến việc xử lý đối với người lao động, cũng phải cân nhắc sao cho kín kẽ, chặt chẽ, phải tạo nên dư luận chung trong xã hội, các cơ quan phải đồng tình với việc đó.
Có một nghịch lý đang tồn tại trong hoạt động XKLĐ đó là sự mâu thuẫn giữa chủ trương của Nhà nước với thực tế hoạt động doanh nghiệp. Trong khi Nhà nước tìm mọi biện pháp để giảm chi phí cho người lao động doanh nghiệp lại liên tục nâng cao tiền đặt cọc bảo đảm thực hiện hợp đồng. Việc thu phí cao là áp lực buộc người lao động phải gắng sức làm việc, có được thu nhập cao để trả nợ, vì vậy họ nhanh chóng phá hợp đồng, tìm nơi có mức lương cao hơn. Nếu chỉ tập trung nâng cao hình phạt, liệu có chấm dứt được tình trạng bỏ trốn?
Đấy chỉ là một trong số nhiều nguyên nhân thôi. Vừa rồi lao động đi Hàn Quốc theo Luật cấp phép mới chi phí chỉ hết 700 USD một người. Thế mà vừa sang đến nơi đã có 50 lao động bỏ trốn rồi. Chúng ta vừa mở được thị trường Anh, đưa được 420 lao động, cũng đã có 50 lao động trốn. Dường như thu nhập càng cao, lao động trốn càng nhiều.
Nhiều người lao động cho rằng, về nước có công ăn việc làm ổn định thì không dại gì trốn chui trốn lủi nơi đất khách quê người. Phải chăng là do chính sách hậu XKLĐ chưa được quan tâm đúng mức thưa ông?
Quan điểm cá nhân của tôi, người lao động về nước, có việc làm, có thu nhập bảo đảm là một trong những yếu tố giúp họ đỡ dằn vặt về chuyện bỏ trốn và vì thế, về nước không có việc làm cũng làm họ suy nghĩ. Các cơ quan Nhà nước cũng nhận thức được. Nhưng hiện nay có một số vấn đề. Lâu nay ta vẫn tư duy tất cả mọi thứ Nhà nước phải lo. Nhà nước có chính sách hỗ trợ, giải quyết việc làm áp dụng cho tất cả người lao động, trong đó có người XKLĐ. Nhưng thực tế người đi lao động ở nước ngoài về còn có vốn, trong khi lao động trong nước lại không có. Chính sách phải ưu tiên cho đối tượng nào, đặc biệt là trong tình hình khả năng tài chính của chúng ta còn hạn hẹp, như hiện nay. Những người đi nước ngoài về có chút vốn, có thể là 100 triệu hoặc nhiều hơn họ có thể tham gia vào những lớp dạy làm doanh nghiệp, dạy kinh doanh.
Nhưng ông thấy giải quyết "hậu" XKLĐ đã ổn chưa?
Cũng không thể nói là đã ổn. Chúng ta mong muốn làm được nhiều, nhưng rõ ràng điều kiện, nguồn lực còn hạn chế. Nếu anh về nước, có việc làm, thu nhập 2-3 triệu/tháng may ra họ mới đi làm. Còn nếu đòi hỏi thu nhập cao hơn thì chẳng cần đi XKLĐ. Công ăn việc làm vẫn đang là vấn đề bức xúc. Điều quan tâm hiện nay của Nhà nước vẫn là giải quyết việc làm cho các đối tượng trong nước.
Có người đặt câu hỏi, có ưu tiên cho những đối tượng đi XKLĐ về nước không, tôi nghĩ nên dành ưu tiên cho đối tượng chính sách trước, ưu tiên cho những lực lượng lao động trong nước đến tuổi mà không có điều kiện đi XKLĐ, sau đó mới đến đối tượng này. Chúng ta đã "chăm bẵm" họ nhiều rồi. Trong điều kiện của xã hội ta, đặc biệt là trình độ dân trí của người lao động còn hạn chế như hiện nay thì phải "chăm bẵm" họ là đúng. Nhưng không thể làm mãi như vậy được. Đã đến lúc Nhà nước chỉ nên thực hiện vai trò "bà đỡ".
Vậy theo ông đâu là giải pháp lâu dài dể hạn chế lao động bỏ trốn?
Chúng tôi đang tính đến việc ra đời bộ luật XKLĐ. Quốc hội đã cho phép làm, cuối năm nay, đầu năm sau trình Quốc hội. Nhưng nếu chờ để ra luật phải mất một năm hoặc hơn năm nữa, trong khi chúng ta đang cần chấn chỉnh và giải tỏa ngay được chuyện lao dộng bỏ trốn.
Việc ban hành nghị định xử lý lao động bỏ trốn là tiền đề cho việc ra đời luật. Nguyên tắc cơ bản là phải đổi mới cơ chế, quan điểm. XKLĐ có phải là lĩnh vực kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, hay đơn thuần là lĩnh vực dịch vụ thôi. Ngoài ra, luật phải làm rõ được quan niệm doanh nghiệp phải lo cho người lao động từ A đến Z, tức là lo từ lúc họ chuẩn bị đi cho đến khi họ về nước không. Nếu lo hết như vậy thì chi phí sẽ tăng cao và sẽ đổ lên đầu người lao động.
Hơn nữa, làm như thế, tự chúng ta sẽ làm cho người lao động thụ động. Người lao động trong cơ chế thị trường phải khác người lao động trong cơ chế cũ. Họ cần phải năng động, tự mình lo cho mình, tự mình phải có trách nhiệm với bản thân mình, từ đó có trách nhiệm với cộng đồng, với tập thể, với xã hội nói chung, chứ người lao động không phải chỉ biết đòi hỏi.
Theo Hà Nội Mới
Nhiều ý kiến cho rằng, giải pháp duy nhất để chấm dứt tình trạng lao động bỏ trốn là phải nâng cao hình phạt, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự. Được biết Bộ Lao động Thương binh Xã hội đang gấp rút soạn thảo Nghị định xử lý lao động bỏ trốn theo hướng này?
Trong tình hình hiện nay, tôi thấy một biện pháp rất quan trọng là phải có một chế tài đủ mạnh để răn đe, giáo dục người lao động. Mấy tháng nay chúng tôi đang triển khai làm đề án này. Rất nhiều phương án đưa ra. Lần họp gần đây nhất giữa các cơ quan liên quan, thấy rằng việc phạt hành chính, đưa vào cơ sở giáo dục cũng chưa ổn. Phạt kinh tế rất nặng, sau đó đưa vào quản lý giáo dục tập trung một thời gian cũng là một phương án. Thậm chí, chúng tôi tìm thấy trong Luật Hình sự có một điều mà mình có thể vận dụng. Tóm lại, đã đến lúc cần có một biện pháp mạnh bảo đảm giáo dục nhưng cũng phải bảo đảm răn đe.
Mục đích là răn đe chứ không phải chỉ xử phạt người lao động. Nếu người lao động thấy biện pháp như vậy là mạnh mẽ, họ sẽ cân nhắc giữa hiệu quả của lợi ích kinh tế của bản thân với biện pháp xử lý. Người lao động thấy về nước là tốt hơn thì họ sẽ lựa chọn phương án đó.
Tuy nhiên, nói đến việc xử lý đối với người lao động, cũng phải cân nhắc sao cho kín kẽ, chặt chẽ, phải tạo nên dư luận chung trong xã hội, các cơ quan phải đồng tình với việc đó.
Có một nghịch lý đang tồn tại trong hoạt động XKLĐ đó là sự mâu thuẫn giữa chủ trương của Nhà nước với thực tế hoạt động doanh nghiệp. Trong khi Nhà nước tìm mọi biện pháp để giảm chi phí cho người lao động doanh nghiệp lại liên tục nâng cao tiền đặt cọc bảo đảm thực hiện hợp đồng. Việc thu phí cao là áp lực buộc người lao động phải gắng sức làm việc, có được thu nhập cao để trả nợ, vì vậy họ nhanh chóng phá hợp đồng, tìm nơi có mức lương cao hơn. Nếu chỉ tập trung nâng cao hình phạt, liệu có chấm dứt được tình trạng bỏ trốn?
Đấy chỉ là một trong số nhiều nguyên nhân thôi. Vừa rồi lao động đi Hàn Quốc theo Luật cấp phép mới chi phí chỉ hết 700 USD một người. Thế mà vừa sang đến nơi đã có 50 lao động bỏ trốn rồi. Chúng ta vừa mở được thị trường Anh, đưa được 420 lao động, cũng đã có 50 lao động trốn. Dường như thu nhập càng cao, lao động trốn càng nhiều.
Nhiều người lao động cho rằng, về nước có công ăn việc làm ổn định thì không dại gì trốn chui trốn lủi nơi đất khách quê người. Phải chăng là do chính sách hậu XKLĐ chưa được quan tâm đúng mức thưa ông?
Quan điểm cá nhân của tôi, người lao động về nước, có việc làm, có thu nhập bảo đảm là một trong những yếu tố giúp họ đỡ dằn vặt về chuyện bỏ trốn và vì thế, về nước không có việc làm cũng làm họ suy nghĩ. Các cơ quan Nhà nước cũng nhận thức được. Nhưng hiện nay có một số vấn đề. Lâu nay ta vẫn tư duy tất cả mọi thứ Nhà nước phải lo. Nhà nước có chính sách hỗ trợ, giải quyết việc làm áp dụng cho tất cả người lao động, trong đó có người XKLĐ. Nhưng thực tế người đi lao động ở nước ngoài về còn có vốn, trong khi lao động trong nước lại không có. Chính sách phải ưu tiên cho đối tượng nào, đặc biệt là trong tình hình khả năng tài chính của chúng ta còn hạn hẹp, như hiện nay. Những người đi nước ngoài về có chút vốn, có thể là 100 triệu hoặc nhiều hơn họ có thể tham gia vào những lớp dạy làm doanh nghiệp, dạy kinh doanh.
Nhưng ông thấy giải quyết "hậu" XKLĐ đã ổn chưa?
Cũng không thể nói là đã ổn. Chúng ta mong muốn làm được nhiều, nhưng rõ ràng điều kiện, nguồn lực còn hạn chế. Nếu anh về nước, có việc làm, thu nhập 2-3 triệu/tháng may ra họ mới đi làm. Còn nếu đòi hỏi thu nhập cao hơn thì chẳng cần đi XKLĐ. Công ăn việc làm vẫn đang là vấn đề bức xúc. Điều quan tâm hiện nay của Nhà nước vẫn là giải quyết việc làm cho các đối tượng trong nước.
Có người đặt câu hỏi, có ưu tiên cho những đối tượng đi XKLĐ về nước không, tôi nghĩ nên dành ưu tiên cho đối tượng chính sách trước, ưu tiên cho những lực lượng lao động trong nước đến tuổi mà không có điều kiện đi XKLĐ, sau đó mới đến đối tượng này. Chúng ta đã "chăm bẵm" họ nhiều rồi. Trong điều kiện của xã hội ta, đặc biệt là trình độ dân trí của người lao động còn hạn chế như hiện nay thì phải "chăm bẵm" họ là đúng. Nhưng không thể làm mãi như vậy được. Đã đến lúc Nhà nước chỉ nên thực hiện vai trò "bà đỡ".
Vậy theo ông đâu là giải pháp lâu dài dể hạn chế lao động bỏ trốn?
Chúng tôi đang tính đến việc ra đời bộ luật XKLĐ. Quốc hội đã cho phép làm, cuối năm nay, đầu năm sau trình Quốc hội. Nhưng nếu chờ để ra luật phải mất một năm hoặc hơn năm nữa, trong khi chúng ta đang cần chấn chỉnh và giải tỏa ngay được chuyện lao dộng bỏ trốn.
Việc ban hành nghị định xử lý lao động bỏ trốn là tiền đề cho việc ra đời luật. Nguyên tắc cơ bản là phải đổi mới cơ chế, quan điểm. XKLĐ có phải là lĩnh vực kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, hay đơn thuần là lĩnh vực dịch vụ thôi. Ngoài ra, luật phải làm rõ được quan niệm doanh nghiệp phải lo cho người lao động từ A đến Z, tức là lo từ lúc họ chuẩn bị đi cho đến khi họ về nước không. Nếu lo hết như vậy thì chi phí sẽ tăng cao và sẽ đổ lên đầu người lao động.
Hơn nữa, làm như thế, tự chúng ta sẽ làm cho người lao động thụ động. Người lao động trong cơ chế thị trường phải khác người lao động trong cơ chế cũ. Họ cần phải năng động, tự mình lo cho mình, tự mình phải có trách nhiệm với bản thân mình, từ đó có trách nhiệm với cộng đồng, với tập thể, với xã hội nói chung, chứ người lao động không phải chỉ biết đòi hỏi.
Theo Hà Nội Mới
Có thể bạn sẽ thích